Thơ Tết Ðầu Xuân

Bắt đầu vào một đầu năm dương lịch và chừng chỉ hơn 2 tuần là tới tết. Với người bản xứ, tháng của lễ lạc đã qua và bắt đầu bằng những tháng ngày của cuộc khởi hành mới của một năm. Còn với người Việt Nam, thì vẫn tràn đầy không khí lễ hội. Dù ngày đầu năm Âm lịch là ngày thường không phải cuối tuần nhưng ý xuân tưng bừng vẫn dường như còn lẩn khuất đâu đây. Ở sở làm và các nơi khác, tôi thấy mọi ngày như mọi ngày. Nhưng khi về đến gần nhà, lái xe qua khu phố Bolsa cuối tuần, thấy không gian tết chan hòa. Nắng tươi nhưng pha những cơn gió lạnh nhắc đến những ngày xuân năm nào. Dạo qua chợ hoa đang tấp nập lại nhớ đến chợ hoa Nguyễn Huệ ngày xưa. Một thuở nào hiện về. Chao ơi là nhớ

 Bây giơ, cũng là thời điểm của báo xuân. Muôn hồng ngàn tía đua chen. Ðọc những tờ báo xuân hôm nay lại nhớ đến những tờ báo xuân ngày cũ. Những ngày cận tết khi còn ngày xưa ở trong nước, đi qua sạp báo, dù là ở một tỉnh thị heo hút cao nguyên hay phố quận sình lầy miền Tây, thấy cả bóng dáng mùa xuân. Những bức tranh, những chân dung thiếu nữ, như mỉm cười với cái lạnh ngọt ngọt của trời đất sang mùa. Những trang bìa báo xuân, như dấu hiệu báo trước năm tháng tươi đẹp của đất trời.

Và trong những tờ báo ấy, như một tập tục đáng yêu, lại thấy những bài thơ xuân hoặc chữ Hán hoặc chữ quốc ngữ nhưng viết bằng lối thư họa ở ngay trang đầu. Những bài thơ như bàn tay mở cửa đón xuân. Mà, một trong những người mở cửa đón xuân nổi bật nhất là nhà thơ Vũ Hoàng Chương với những bài thơ trang trọng như mang lại một không khí đầy mùi trầm thơm ngát…

Nhà thơ Vũ Hoàng Chương là giáo sư trường Chu văn An. Mặc dù tôi không học thầy nhưng cũng có lúc đứng ngoài cửa lớp nghe thầy giảng thơ và đọc thơ.Tôi đã thấy nhiều đứa học trò ngỗ nghịch học ban B nhưng đứng ở ngoài cửa lớp ban C để nghe một cách im lặng và chăm chú bài giảng văn chương của thầy. Thỉnh thoảng, thầy lại ngâm thơ và nhắc lại một vài giai thoại văn học của thời tiền chiến và cả hiện đại bây giờ.

Hình như mỗi năm khi xuân về Thầy Vũ Hoàng Chương thường làm thơ để tỏ tâm tình với nhà, với nước khi trời đất giao mùa. Như bài “Ðón Xuân Mười Chín” làm vào dịp tết Quý Sửu 1973:

“Bấm đốt từ di cư đến nay

 Ðón xuân vừa vặn hết bàn tay

 Sang sông Ngựa đã hai lần hí

 Vạch đất Trâu thêm một luống cày

 Lửa ném tràn lan đầu gió Bắc

Vàng rung thăm thẳm đáy hồ Tây

 Bút toan chạy ngược đau lòng chữ

 Núi vẫn ngàn năm bạc tóc mây

Dăm kẻ tri giao toàn kiết xác

 Nửa đêm trừ tịch cũng vờ say

 Hằng nga bỏ địa cầu đi mãi

 Tết đến buồn không chịu vẽ mày

 Xưa rồi lửa phỏng tên bay

 Giờ chơi nhạc sống nào đây hỡi giàn

 Bóng ai trên đá ngồi gan

Có nghe rung một giây đàn lẻ loi

 Trời xuân chẳng én đưa thoi

 Mà như gấm đẩy bức Hồi Văn qua

 Nghé kêu đầy bến vàng hoa.”

 Có một bài thơ, được truyền khầu như là chứng tích của một thời thế đảo điên. Có một thi sĩ, cả đời chỉ muốn làm thơ ca tụng tình yêu nhưng lại có những bài thơ ghi lại được những thời điểm khốc liệt của lịch sử.

Chợt nghĩ tới bài thơ “Vịnh tranh gà lợn” của nhà thơ Vũ Hoàng Chương làm trong khoảng thời gian tranh tối tranh sáng của thời sự. Lúc ấy, ngày tết Bính Thìn, khi Cộng Sản vừa chiếm được cả đất nước và một chính sách trả thù phân biệt được áp đặt lên toàn dân tộc. Lúc ấy, viên chức, sĩ quan của chế độ VNCH bị tù đày đến gần cả triệu người. Lúc ấy, văn nghệ sĩ bị truy bức, bắt bớ, sách vở bị tịch thu đốt bỏ. Lúc ấy, buổi hỗn quân hỗn quan, lúc thú vật đội lốt người, tác yêu tác quái:

 “Sáng chưa sáng hẳn, tối không đành

Gà lợn om sòm rối bức tranh

Ràng vách có tai, thơ có họa

Biết lòng ai đỏ, mắt ai xanh

Mắt gà huynh đệ bao lần quáng

Lòng lợn âm dương một tấc thành

Cục tác nữa chi đừng ủn ỉn

Nghe rồng ngâm váng khúc tân thanh”.

 Những thành ngữ, tục ngữ của dân gian dưới tay nghệ sĩ đã thành đắc địa. Chữ không còn là một nghĩa nữa mà thành nhiều nghĩa, và, sự thâm trầm sâu lắng trong ngữ nghĩa làm bài thơ lột tả được một tâm sự chung mang của cả một thế cuộc tao loạn đầy bất trắc.

 Bài thơ được truyền tụng trong thời buổi ấy và cũng là nguyên nhân để những người cầm quyền Cộng Sản bắt giam tác giả. Thi sĩ bị giam tại khám Chí Hòa, sau vì đau yếu nên được thả về nhà và mấy ngày hôm sau thì từ trần, đúng vào ngày 6 tháng 9 năm 1976.

Trong tù, ông viết bài thơ cuối cùng của đời mình, bài Thơ Gởi Vợ, gửi cho người thân nhất đời của mình, như linh cảm thấy một chuyến đi đã kề sẵn. Thơ như tiếng khóc nén thầm của những dòng thơ, từ dòng cổ thi từ thuở Nguyễn Du xưa xa, của nỗi niềm “bất tri tam bách dư niên hậu, thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” đến nỗi đau mất nước quặn thắt bây giờ.

 Con chim trước khi chết, tiếng hót bi thương. Người thi sĩ, trước khi lìa bỏ trần gian, lời kêu ai oán. Bài thơ thất ngôn bát cú gói ghém cả một tâm tình. Quốc phá, gia vong, thân trong ngục tù, nhưng, tất cả rồi sẽ trôi qua như nước chảy dưới cầu và không bao giơ phai nhạt tấm lòng son sắt với đời, với người, với dân tộc, với đất nước.

 Trong hai mươi năm văn học miền Nam, thầy Chương đã có nhiều bài thơ xuân, thơ Tết đăng trang trọng ở các tờ báo xuân ngay trang đầu tiên.Thế mà, có một bài thơ Tết, lại không được đăng ở trong bất cứ báo nào ở thời điểm ấy. Bài thơ “Vịnh tranh gà lợn” tuy không được đăng báo nhưng lại được truyền tụng và coi như là dấu hiệu bất khuất của văn nghệ sĩ miền Nam. Bài thơ làm trong dịp cuối năm khi cộng sản đã chiếm được miền Nam và một xã hội đầy xáo trộn bi đát đã biến đất nước thành một trại giam khổng lồ.

Thầy Chương đã tận dụng cả ngôn ngữ bình dân của những câu ca dao lẫn ngôn ngữ bác học để tạo thành bài thơ có nhiều ý nghĩa ngầm chứa đựng bên trong. Từ bức tranh gà lợn dân gian làm khởi điểm để tạo thành những nỗi niềm nói hoài mà chẳng đủ.Sống giữa một thời thế tranh tối tranh sáng, khi mà những loài thú vật đội lốt con người làm rối loạn cuộc sống hiện tại. Vách có tai, thơ có có họa, khiến mọi người xa nhau, vì hệ thống kềm kẹp của bạo quyền và cũng chẳng biết ai xanh vỏ đỏ lòng, ai a dua phản trắc trong những trò kịch nhố nhăng.

Một bài thơ khác, hình như là bài thơ cuối của thầy làm trên dương thế cũng ôm ấp cả tâm sự của một người đã linh cảm được sự trở về miên viễn thiên thu của mình. Bài thơ làm trong nhà tù Chí Hòa tháng 6 năm 1976. Bài “Thơ Gởi Vợ”:

“Thấm thoát vào đây tháng đã tròn

lông hồng gieo xuống nặng bằng non

một manh chiếu lỉa hồn ngây ngất

ba chén cơm rau xác mỏi mòn

ngày tới bữa ăn thường nhớ vợ

đêm về giấc ngủ lại thương con

bao nhiêu nước chảy qua cầu nữa

chẳng dễ gì phai nhạt tấm son

tình thương nỗi nhớ chon von

trưa nay bừng thức vẫn còn đổi trao

thật rồi đâu nữa chiêm bao

tin ra Vĩnh Hội thư vào Hòa Hưng”.

Một bài thơ chữ Hán khác mà theo những nhà sưu tập thì đó là bài thơ viết vào đêm trừ tịch Tết Ất Mão mà bản viết gửi cho ông Ðặng Tiến là một mảnh bìa của tạp chí Nhà Văn số xuân Ất Mão. Bài thơ “Khai xuân thạch khúc”, bản dịch nghĩa, và bài thơ dịch trích dẫn sau đây:

Tường vân mãn tọa tọa bôi minh

Hy chúc xuân khai dạ bán quỳnh

Ðông liễu tây đào song tận mỹ

Tần tang Yên thảo nhất hồi thanh

Tần giao cố quốc hoài kim phấn

Tư hữu cuồng ngôn xuất thạch bình

Ðối ngọa dữ sa trường túy ngọa

Cổ lai thùy dã chiếm cao thanh?

Dịch nghĩa

 Thạch khúc vào xuân

Mây lành tràn ngập ghế ngồi trên chén rượu rực rỡ

Vui chúc vào xuân đêm gioa thừa nhiều tốt đẹp

 Hai cây liễu phía đông và đào phía tây đều tuyệt đẹp

Dâu nước Tần và cỏ nước Yên cùng một sắc xanh rì

Dẫu cho nặng lòng nhớ thương hoià hương phấn nước cũ

Song vẫn có lời cuồng ngông vong lên giữa búi dựng tưa thành

Giữa người thơ nằm say ngất và chiến sĩ say ở chốn sa trường

Xưa nay ai lưu danh cao hơn mấy ai?

Bài dịch:

Mây quẩn ngôi thơ, chén rạng ngời

Giao thừa mừng chúc đêm xuân tươi

Tây đào đông liễu hây hây phất

 Dâu cỏ Yên Tần rỡ rỡ phơi

Luyến phấn- hoa nghiêng đài nhớ nước

Cuồng ngâm – thơ dựng vách in trời

Thi nhân, tráng sĩ cùng say khướt

Ai biết danh đời ai nhựơng ai?

Những bài thơ xuân, bây giờ cuối năm ngồi đọc lại thấy một điều gì bâng khuâng trong tiềm thức. Tác giả thì đã ra đi vào miền vô thủy vô chung từ lâu nhưng những nét chữ để lại dường như cón tươi nét mực. Tôi nhớ lai hình ảnh của một giáo sư lúc nào cũng ăn mặc tề chỉnh đi trong hành lang trường. Mái tóc ngắn rẽ đầu ngôi ở giữa, những bộ veste màu nhạt, những nụ cười hóm hỉnh, những câu thơ đọc trong lớp nghe vang vang nỗi niềm nào đồng vọng từ xưa. Có người gọi Thầy Chương là Ðỗ Phủ của Việt Nam. theo tôi, chẳng có ai và chẳng có gì so sánh được với một người đã suy tư và đã sáng tác bằng trái tim Việt Nam và tâm thức Việt Nam như thầy…

Ở hải ngoại, Tết đến cũng có không khí rạo rực đón năm mới, cũng có những bản nhạc xuân vang vọng trên phố phường, cũng có nhựng tập báo xuân với tranh bìa màu sắc lộng lẫy. Những trang đầu của báo xuân cũng có những bài thơ trang trọng khai hội như nét bút xương kính của thi sĩ Cao Tiêu.

Nhà nhận định phê bình văn học Tam Ích Lê Nguyên Ngư đã nhận xét về thơ Cao Tiêu như sau:
“Con người và cái tâm cùng cái thính giác của con người, khi đã theo nhip lịch sử, thì cũng làm thơ theo thi hiệu mới- trên bối cảnh dân tộc. Bỏ dân tộc thì mất tính dân tộc trong thơ: Cao Tiêu tránh được sự mất, để nuôi và duy trì sự còn- thành ra thơ CaoTiêu mới mà lại rất Á Ðông. Nói cách khác rất Việt Nam: hiếm ở đấy; khó ở đấy; quý ở đấy –mà cái đẹp ở đó trưởng thành theo nhịp tâm tư, vươn theo nhịp thời gian; thời gian bên trong, kể cả thời gian mới nhất là thời gian nàng Giáng Hương ứa nước mắt dùng để đưa người danh sĩ về cõi mầu hồng- hồng trần”.

Có lẽ nhận xét ấy tuy đã viết từ cách xa hơn 50 năm đến nay vẫn còn ý nghĩa?

Thi sĩ Cao Tiêu có tay bút bay bướm viết chữ Hán Tự và Việt ngữ kiểu chữ thảo rất đẹp và thường được mời để viết trang đầu tiên của những giai phẩm xuân ở hải ngoại.

Theo truyền thống từ trong nước ra tới hải ngoại những vị được coi như là tiên chỉ trong làng văn có nét chữ bay bướm thường được mời để viết những trang thơ khai bút của các giai phẩm xuân. Như các giai phẩm như báo Tự Do, hay tạp chí Văn ở trong nước thường có nét bút của thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Còn ở hải ngoại thì các giai phẩm xuân của báo Người Việt, Viễn Ðông, Việt Tide,… thường có thơ xuân của thi sĩ Cao Tiêu ở trang đầu tiên.

Thơ xuân chữ Hán của ông có nét cổ kính của những thời xa xưa nhưng lại có nét mới của nhịp sống hiện giò của tương lai mở ra những điều tốt lành cho xuân mới.Ví dụ như bài Xuân Cầm:

“Xuân cầm tư diệu thủ

Tư diễm phát hoa y

Thuyền hội thanh giang độ

Sương lung bích liễu ti

Cảm quan ca chúc tửu

Thôi ngã túy đề thi

tùy dương xuân nhập mộng

Thủy ánh nguyệt lưu ly

Và tác giả dich sang Việt ngữ:

“đàn xuân rung nhớ điệu tay ai

nhớ áo hoa buông mướt tóc dài

thuyền thả sông xanh neo bến hối

liễu chùng tơ biếc rủ sương lơi

như say bút múa niềm thơ gửi

nghe ấm hơi ca hứng rượu mời

theo khúc dương xuân vào cảnh mộng

trăng lồng bóng nước ánh chơi vơi.”

Một bài thơ khác, Phùng Xuân cũng là cảm giác của một người hòa đồng với thiên nhiên tìm thấy không gian yên hòa của đất nước quê hương:

Ðông phong xuy lục liễu

Nhật noãn chiếu xuyên vân

Ðiểu minh sơn thủy họa

Vô xứ bất phùng xuân.

Diễn nghĩa:

 Gió đông thổi vào khóm liễu đậm xanh lá cành tha thướt

 Ánh nắng ấm chiếu qua đám mây lờ lững trên không.

Tiếng chim rộn ràng hót chào trước cảnh non nước đẹp như một bức tranh.

Buông tầm mắt nhìn quanh khắp mọi nơi, không chỗ nào là không thấy xuân về.

Tác gỉa dịch: Gặp xuân

Gió xuân thổi liễu xanh xanh đậm

Nắng xuyên mây tỏa ấm không gian

 Ðón xuân chim hót rộn ràng

Bức tranh non nước vô vàn gấm hoa

Gặp xuân khắp chốn gần xa.

 Giở những trang thơ của thi sĩ Cao Tiêu, nhìn những nét Hán Tự bay bướm nhưng tề chỉnh xương kính, đọc những câu thơ chuyển dịch Việt ngữ tài hoa để tưởng tượng lại một thời đã qua của lịch sử. Những nét chữ những ý thơ đã thành của những hồn trăm năm cũ, bây giờ. Ðọc sách để tưởng tượng đến người, đến thi sĩ làm đẹp đời sống và mang lại phong vị cổ xưa cho một đời lưu lạc tha hương…

 Giở những trang thơ của thi sĩ Cao Tiêu, nhìn những nét Hán Tự bay bướm nhưng tề chỉnh xương kính, đọc những câu thơ chuyển dịch Việt ngữ tài hoa để tưởng tượng lại một thời đã qua của lịch sử. Những nét chữ những ý thơ đã thành của những hồn trăm năm cũ, bây giờ. Ðọc sách để tưởng tượng đến người, đến thi sĩ làm đẹp đời sống và mang lại phong vị cổ xưa cho một đời lưu lạc tha hương…

Nguyễn Mạnh Trinh

Related posts