Nguyễn Đức Tùng
Những năm tám mươi, tôi đến Canada, sau hai tuần lễ hưởng tiền trợ cấp của chính phủ, tôi lao vào cuộc sống mới, làm việc như điên để quên đi và để không ngã xuống trên đất nước xa lạ, thế rồi một ngày sau bốn tuần lễ làm việc trong một trạm đổ xăng, trong tuyết, tôi quyết định yêu nó.
Nữ thẩm phán Savelyeva: Anh làm nghề gì?
Brodsky: Tôi làm thơ. Tôi dịch. Tôi nghĩ thế…
Thẩm phán: Không nghĩ với suy gì cả. Đứng thẳng người lên! Đừng dựa vào tường như thế, hãy nhìn tòa.Trả lời cho đúng! (Hướng về phóng viên)Dừng ngay việc ghi ghi chép chép, nếu không ta sẽ ném cô ra khỏi cửa! (Hướng về Brodsky)Anh có công việc thường xuyên không?
Brodsky: Tôi nghĩ là đây là công việc thường xuyên của tôi.
Thẩm phán: Trả lời đàng hoàng coi!
Brodsky: Tôi làm thơ, tôi nghĩ là chúng sẽ được in ra, tôi nghĩ thế.
Thẩm phán: Tòa không muốn nghe anh nghĩ cái gì. Hãy trả lời xem tại sao anh không chịu làm việc.
Brodsky: Tôi làm việc chứ. Tôi làm thơ mà.
Thẩm phán: Tòa không muốn nghe chuyện ấy. Tòa muốn biết anh làm việc ở cơ quan nào.
Brodsky: Tôi có một vài hợp đồng với nhà xuất bản sách.
Thẩm phán: Anh có đủ hợp đồng để nuôi sống bản thân không? Hãy liệt kê chúng ra, những thứ gì, ngày tháng, bao tiền?
Brodsky: Tôi không nhớ chính xác, tất cả hợp đồng đều ở trong tay của luật sư của tôi.
Thẩm phán: Tôi đang hỏi anh.
Brodsky: Hai cuốn sách gồm có những bản dịch của tôi được xuất bản ở Mạc Tư Khoa… (Anh kể tên chúng).
Thẩm phán: Anh làm việc trong bao lâu?
Brodsky: Khoảng chừng …
Thẩm phán: Tòa không muống nghe chữ “khoảng chừng”!
Brodsky: Năm năm.
Thẩm phán: Anh làm việc ở đâu?
Brodsky: Trong một nhà máy. Với những nhóm địa chất…
Thẩm phán: Anh làm việc ở nhà máy trong bao lâu?
Brodsky: Một năm.
Thẩm phán: Anh làm gì ở đó?
Brodsky: Tôi là thợ điểu khiển máy phay.
Thẩm phán: Nhưng nói chung, nghề nghiệp chính của anh là cái gì?
Brodsky: Nghề nghiệp của tôi là nhà thơ, người dịch thơ.
Thẩm phán: Ai gọi anh là nhà thơ? Ai đưa anh vào đẳng cấp các nhà thơ?
Brodsky: Không có ai cả. (Nói thêm) Thế ai bầu tôi làm con người?
Thẩm phán: Anh có học cái này chưa?
Brodsky: Học cái gì ạ?
Thẩm phán: Học làm thơ? Anh còn chưa chịu học hết trung học là nơi người ta chuẩn bị cho … dạy cho các anh cách làm thơ …
Brodsky: Tôi không nghĩ rằng người ta có thể học nó từ nhà trường.
Thẩm phán: Sao không?
Brodsky: Tôi nghĩ là … (bối rối) … chúng đến từ Đức Chúa Trời.
Đó là trích đoạn một tường trình về hai phiên tòa tháng Hai và tháng Ba 1964 bởi Frieda Vigdorova hội viên hội nhà văn Leningrad, trên tờ Coll yer Bowen for The New Leader, 31 tháng 8 năm 1964, và sau đó trên New York Times (1), hai mươi ba năm sau, năm 1987, chàng trai đứng trước tòa bị kết án năm năm tù vì tội “parasitism”, được trao giải Nobel, đánh dấu chặng đường dài mà nhân loại đi xuyên qua bức màn tre, cùng thi sĩ, đó là một năm vui vẻ: làn sóng người vượt biển tăng cao trở lại, các nước Canada, Mỹ, Úc, châu Âu nhận thêm nhiều người mới, cộng đồng người Việt hải ngoại phát triển nhanh; trước cửa các tiệm gởi quà cứu giúp về cho đồng bào khốn khổ, người xếp hàng nườm nượp.
Nhưng parasitism là gì? Là trạng thái ký sinh, được các nhà lý luận xô viết chuyển một cách tài tình thành tội ăn bám xã hội.
Đừng đi ra khỏi phòng. Cứ để mặc thế
Hít khói thuốc rẻ tiền, sao cần chi mặt trời
Bên ngoài cũng chẳng có gì, hạnh phúc cũng không
Don’t leave your room. This is better left undone.
You’ve got cheap smokes, so why should you need the sun?
Nothing makes sense outside, happiness least of all.
Bài thơ của Brodsky nói về dịch cúm Hồng Kông, giết hàng triệu người trên thế giới những năm 1968, 1969, bài thơ ấy năm mươi năm sau ứng nghiệm vào đại dịch Vũ Hán, tiên đoán ghê gớm.
Năm 1987, “Intifada” lần thứ nhất, người dân Palestine ở Gaza và Bờ Tây nổi loạn , chiếm đường phố, quân đội Israel dập tắt bằng hơi cay và súng cao su, Ahmed Yassin thành lập tổ chức Hamas, xuất thân từ tổ chức Anh em Hồi giáo Ai cập, vốn chủ trương hòa bình, trước đó, Anh em Hồi giáo Ai cập được sự ủng hộ của Israel. Chính Hamas biến thành một tổ chức khủng bố, tấn công vào quân đội và cả dân thường Do Thái, ba mươi sáu năm sau, tháng 10, 2023, Hamas sẽ tập kích vào Israel, giết khoảng 1,400 người và bắt cóc 200 con tin, châm ngòi lửa cho khủng hoảng Trung Đông mới, thực ra cả dân tộc Palestine và dân tộc Do Thái đều có quyền sinh sống trên mảnh đất mà tổ tiên họ để lại, mảnh đất này vốn chồng lên nhau, nhưng họ đã không tìm được cách để thu xếp hòa bình như Arafat và Rabin năm nào.
Những năm tám mươi, tôi gặp một người bị bệnh SIDA.
Bên ngoài Intifida và SIDA, thế giới vui vẻ, họ sẽ nghe Madonna nữ hoàng nhạc Pop làm mưa làm gió với Like A Virgin, Như Gái Còn Trinh.
Like a virgin
Touched for a very first time
Like a virgin
When your heart beats next to mine
Như gái còn trinh
Được chạm lần đầu
Như em gái còn trinh
Bên nhau tim đập thình thình
Giọng Madonna ngọt như mật ong, nỗi sợ SIDA/ AIDS không làm cho nhân loại bớt điên cuồng vì yêu nhau, tình yêu nam nữ khác với tình cha mẹ hay anh em, mãnh liệt hơn, ích kỷ hơn, phản bội hơn, bất trắc hơn. Nhân loại cần bất trắc, nhưng đó không chỉ là sở hữu, nó không chia sẻ với người thứ ba vì trong tình yêu ấy hai trở thành một, một người trở thành lớn hơn chính mình, vì vậy nó không còn dung chứa điều gì khác, vậy, kỳ lạ thay, sở hữu ấy lại chứa trong mình tình yêu nhân loại, những năm tám mươi là những năm thần kỳ: chính nó xô ngã bức tường Bá Linh, những năm tám mươi của Maradona và Madonna, của Michael Jackson và Tina Turner:
What’s love got to do with it?
Nếu yêu em anh phải làm gì?
Và của Gorbachev và Reagan, của phi thuyền con thoi và sao chổi Halley, của công đoàn Đoàn Kết và cách mạng nhung và Havel, và Đổi mới ở Việt Nam, và những tác phẩm văn học xuất sắc, rồi tắt đèn, hé ra chút ân huệ nhỏ cho dân tộc cho Tướng về hưu và Nỗi buồn chiến tranh, và khép lại ngay lập tức, để một người, Nguyễn Huy Thiệp, lọt ra ngoài các xung đột dân tộc, và một người khác, Bảo Ninh, rơi trở lại cái bẫy chiến tranh, và cũng hệt như một nhà văn ở phía khác, Phan Nhật Nam, Bảo Ninh sẽ không bao giờ ra khỏi tâm thức đối đầu ta và địch, và của Trăm Hoa Vẫn Nở Trên Quê Hương ở Cali, Nhật Tiến chủ trương biên soạn, 1989, gồm bài viết của 27 nhà văn hải ngoại nghĩ về văn học trong nước 1986- 1989, đó là những lời tận đáy lòng của các nhà văn hải ngoại nghĩ về các nhà văn miền Bắc và trong nước, vậy mà những kẻ cực đoan đã tấn công Nhật Tiến, một nhà văn trong sáng như pha lê, một thuyền nhân, bạn tôi nhìn thấy cuốn sách của Nhật Tiến bị đốt trên đường phố Bolsa, bạn có muốn biết thêm gì nữa về thói a dua, sợ hãi uy quyền của người Việt? Thì đọc Nguyên Ngọc: “Nếu tự anh không biết được trước cuộc đời hôm nay anh cần ca ngợi cái gì, đấu tranh chống cái gì, anh yêu ai ghét ai, anh phải yêu như thế nào và ghét như thế nào, thì anh còn là nhà văn cái nỗi gì!” , nhưng những năm tám mươi cũng phát hiện ra năng lượng tối và phát hiện ra SIDA (AIDS) cùng lúc, và năm 1981 phi thuyền con thoi Columbia được phóng lên không gian, đánh dấu mốc mới trong chinh phục vũ trụ, và năm năm sau, 1986, phi thuyền con thoi Challenger phát nổ chỉ vài phút sau khi rời giàn phóng, mang theo bảy phi hành gia, trên TV, tôi thấy Reagan khóc.
Bao giờ tôi cũng dừng lại, dù làm việc gì, khi nhìn thấy một người đàn ông khóc, năm 1990, NASA phóng viễn vọng kính khổng lồ Hubble lên quỹ đạo; nó nhìn sâu vào không gian, gởi về các bức ảnh quý giá của vũ trụ bí ẩn, của các hố đen, năm 1986, sao chổi Halley trở lại, nó mở đường cho bộ phim Star wars, trong khi ngồi coi Star wars, Cuộc chiến tranh giữa các vì sao, và Back to the future, Trở lại tương lai, vừa nấu nước sôi pha mì gói Đại Hàn, tôi vừa xem các phim bộ võ hiệp Hongkong, xem Trần Ngọc Liên thủ vai nàng Tiểu Long Nữ diễm ảo bị nạn trong bụi rậm, và những Vương Ngọc Yến của Trần Ngọc Liên 1982, Miêu Nhược Lan của Tăng Hoa Thiên, 1985, Triệu Minh của Lê Mỹ Nhàn, 1986, trong khi cô bạn gái người Việt gốc Hoa cùng nhà của tôi, suốt ngày coi phim Quỳnh Dao, những năm tám mươi nở rộ lý thuyết phê bình, có bốn lý thuyết căn bản: Phê bình mới, Giải cấu trúc hoặc hậu cấu trúc, Phê bình phân tâm học và lý thuyết Marxist. Chủ nghĩa hậu cấu trúc hoặc giải cấu trúc tấn công vào các định kiến hậu- Platon, nhấn mạnh sự hiện hữu và lời nói, dường như họ tin tưởng vào lời nói hơn là các văn bản viết. Đối với Barthes, Derrida, and Foucault, người đọc vắng mặt khi tác giả viết, và tác giả vắng mặt khi người đọc đọc.
– Xin mời quý khách dùng trà ?
July cúi gập người xuống ở ngưỡng cửa, bắt đầu một ngày như thể mỗi ngày đều là ngày của vị chủ nhân. Tiếng gõ cửa. Bảy giờ sáng. Trong lâu đài của thống đốc, trong những căn phòng khách sạn, trong những căn nhà dành riêng cho các ông chủ, các phòng ngủ quý phái – khay trà trong bàn tay đen đúa của anh thơm mùi xà phòng Lifebuoy. Tiếng gõ cửa một lần nữa.
Nadine Gordimer giải Nobel 1991, nhà văn Nam Phi, mẹ người Anh, cha người Lithuania, mở đầu cuốn tiểu thuyết “Những người của chàng July” với đoạn văn mô tả một ngày bình thường của đời sống một người da đen ở Nam Phi, cao điểm của cuộc xung đột trắng đen, cuộc khủng hoảng sẽ được kết thúc hơn mười năm sau, khi Nelson Mandela trở thành tổng thống da đen đầu tiên, những năm tám mươi được đánh dấu bởi phương cách mà thế giới giải quyết nạn kỳ thị và họ đã giải quyết một cách tốt đẹp.
Những năm tám mươi, ngắm bức hình Mandela do giáo sư khoa trưởng cho treo trên tường, tôi nghĩ: hòa giải dân tộc không làm thay đổi được quá khứ chiến tranh, nhưng làm thay đổi được tương lai của chúng ta, tôi ủng hộ những người kêu gọi hòa giải, với một điều kiện: bình đẳng từ hai phía, không có một điều gì bất bình đẳng, không công bằng, mà có thể tồn tại lâu: giữa người và người, nam và nữ, kẻ chiến thắng và người thua cuộc, dân cai trị và dân bị trị, dân tộc Kinh và các dân tộc miền núi, Do thái và Ả rập, bình đẳng không phải là giống nhau, đồng phục, không phải cứ kéo điện về các bản làng miền núi là bình đẳng, trái lại, chúng ta ra sức tàn phá các văn hóa bản địa bằng điện khí hóa và bằng du lịch và bằng di dân cơ học: văn hóa Hà nội, văn hóa Sài gòn, văn hóa Tây nguyên, văn hóa Sapa, Nam Phi là tấm gương, không sáng lắm nhưng không quá mờ, cho các dân tộc khác noi theo, nhưng các dân tộc khác không noi theo, mấy năm sau: cuộc tàn sát ở Kosovo, hàng ngàn người dân bị giết, bị hãm hiếp, bị xua đuổi khỏi làng mạc của họ, và từ ngày 17 tháng 4 đến ngày 15 tháng 7 năm 1994, cuộc tàn sát ở Rwanda trong một trăm ngày, nửa triệu người Tutsi đã bị giết hại, hãm hiếp, chặt đứt tay chân, những năm tám mươi không phải là kẻ sáng tạo ra tội ác, nhân loại biết đến chúng trong các cuộc chiến tranh, trên thế giới và trên bán đảo Đông dương, nhưng những năm tám mươi không phải chỉ có tin buồn, nếu thế, bạn ta làm sao sống?
Những năm 1980, Pop bùng nổ, trong khi disco trở nên lạc hậu thì postdisco, eurodisco, dance sport trở nên thịnh hành, nhạc rock khai sinh từ những năm bảy mươi tiếp tục lan rộng, đôi khi chỉ với một cây đàn ghi ta, nhưng nhiều hơn là sự phối hợp âm nhạc kỳ lạ, những nhạc cụ điện tử tân tiến ngày càng được sử dụng, suốt những năm tám mươi, hip-hop làm mưa làm gió, trong một thế kỷ, những năm tám mươi là đỉnh cao của âm nhạc với Michael Jackson, Madonna, Whitney Houston, The Police, trong trại tỵ nạn, tôi được xem cuốn phim nhựa “Tìm kiếm Susan một cách tuyệt vọng” do Madonna thủ vai, I can’t believe it, nàng Susan nói, đó là ân huệ duy nhất từ những người giám sát trại tạm giam Bangkok, detention centre, cuốn phim làm tôi mê mẩn, thế còn Diana Ross? Và John Lennon, thế còn Susan Vega? Nhân loại chưa đủ vui thú sao? Thế kiều nữ Cindy Crawford, cao 1m75, nặng 59 ký, đến từ Illinois? Gần như ngay lập tức, Claudia Schiffer từ Đức, sánh vai, vượt lên với chiều cao 1m80, cân nặng 61 ký? Xưa nay cái đẹp, và cái đẹp cơ thể phụ nữ, vẫn là quà tặng của thượng đế dành cho con người, sau những khổ đau kéo dài bất tận của họ, mang cho họ ảo tưởng lớn lao rằng chỉ có cái đẹp là cứu chuộc được thế giới.
Nhưng cái đẹp làm sao cứu chuộc thế giới?
Chỉ có lương tâm và trí tuệ mới làm được điều ấy.
Cái đẹp không có một nhiệm vụ nào cả, mục đích của cái đẹp chính là nó, Dương Thu Hương: “Năm ấy, mẹ còn xuân sắc, con mắt không liếc ai, miệng không cười với ai, tình yêu làm họ thức dậy, như đám cháy sau hồi âm ỉ được dội thêm dầu”, nhiều năm sau, từ Pháp, chị sẽ viết trong một cuốn tiểu thuyết khác, Chốn vắng: “Họ đứng tựa vào nhau nhìn những làn hơi trong suốt rung rinh như sóng, nhìn lũ rắn bóng nhảy trườn qua lối mòn, lắng nghe tiếng chim tức tưởi xa vời vang tới. Sự im lặng mê mệt trùm lên họ”, truyện của Dương Thu Hương thường ám ảnh về thân phận của những người phụ nữ, tình yêu của họ, sự đau khổ, sự hy sinh của họ, văn của bà đẹp, đẹp mà giản dị, trực tiếp, sáng sủa, chi tiết nào ra chi tiết đó, như một người đã sống quá nhiều đã nghe quá nhiều chuyện, đã biết tất cả, khổ nhục và sự cao thượng làm người, và giờ đây kể lại cho chúng ta, khi thong thả khi gấp gáp, không phải bao giờ cũng bình tĩnh, toàn bộ những điều ấy làm tôi xúc động ngay khi vừa đọc lần đầu, vừa đứng vừa đọc, Những thiên đường mù, trước một hiệu sách của hội Việt kiều yêu nước, được viết 1987, được dịch ra tiếng Pháp 1988, Chốn vắng in tại Pháp 2002. Năm 1985, sau mười năm tù cải tạo, Tô Thùy Yên được thả về:
Ngồi đây, nền cũ nhà hương hỏa
Đọc lại bài thơ buổi thiếu thời
Ai đó trong hồn ta thổn thức?
Vầng trăng còn tiếc cuộc rong chơi
Những năm tám mươi, chúng ta nói về điều gì khi chúng ta nói về tình yêu?
Raymond Carver., mở đầu một thời đại của truyện ngắn vốn bị khuất lấp giữa các bộ trường thiên tiểu thuyết, tạo ra một lối văn mới lạ và lãnh đạm, sự chú ý đối với đời sống bình thường của những kẻ tầm thường, sự buồn rầu của một cuộc đời không sự kiện, và vì vậy mà đáng yêu vô cùng, truyện của ông đầy giai thoại, những bí ẩn về cuộc đời hiện tại, những dịch chuyển văn hóa, chính Carver đã thay đổi cái nhìn của tôi đối với văn học và đời sống, nhưng phải đến Alice Walker, với Màu hồng, Color purple, giải Pulitzer, mới mở mắt tôi về chân dung người phụ nữ, da đen, những đồi bại và sự đau khổ của họ, và khởi đầu thách thức các giá trị về quan hệ đồng phái, những năm tám mươi trong một cuộc thi tôi đã gặp một đề tài nói vềngười phụ nữ đồng tính và theo quan điểm của tâm lý học th ời ấy đó là một trường hợp bệnh hoạn, Walker là một trong những nhà văn da đen mà tôi theo đuổi suốt nhiều năm, những năm tám mươi, chúng ta có thể nào quên Don Delillo? Tiểu thuyết Tiếng động trắng, The white noise, một cú đánh sửng sốt vào nền văn hóa đương đại, cảnh giác nhân loại về văn minh kỹ thuật, chủ nghĩa tiêu thụ, đã được cảnh báo ở Hoa Kỳ những năm tám mươi và bốn mươi năm sau lặp lại một cách chính xác ở các nước đang phát triển, châu Phi, châu Á, Việt Nam, Trung hoa, tàn sát đến cùng các giá trị nhân văn, bạn không thể quên Tony Morrison, Nobel văn học với Kẻ yêu dấu, Beloved, gây chấn động, với lời văn khắc họa như lấy mũi dao khắc vào đá, trên các chuyến xe buýt, tàu điện ngầm, lúc trời mờ sáng, những chuyến đầu tiên, những chuyến cuối cùng, ở New York, tôi ngồi đọc Lịch sử vắn tắt của thời gian, A brief history of time, chính mấy chữ lịch sử của thời gian, cái nhan đề, hấp dẫn tôi, lúc ấy tôi chưa biết Stephen Hawking, đọc xong cuốn sách này tôi nhận ra rằng con người có thể du hành ngược về quá khứ, nhưng không thể đi tới tương lai, toàn bộ cuốn sách không có một câu nào như vậy, nhưng tôi suy ra, tất nhiên một cách không có gì khoa học, điều an ủi duy nhất là nếu con người có thể du hành vào quá khứ, dù chỉ trong một giây thì cũng có thể trong một giờ, dù trong một giờ thì cũng có thể trong nhiều năm, tôi muốn sửa chữa quá khứ của mình: trong chúng ta có ai không muốn điều ấy? Thực ra sửa chữa quá khứ chính là công việc lớn nhất của văn học.
Từ đầu thế kỷ hai mươi, hai hệ thống vật lý, thuyết tương đối mở rộng của Einstein, một lý thuyết giải thích lực hấp dẫn và cấu trúc của không thời gian ở mức độ vũ trụ, và cơ học lượng tử, sử dụng các nguyên lý về xác suất để mô tả các hiện tượng vật lý dưới nguyên tử, cho đến cuối những năm bảy mươi, chúng giải thích được tất cả hiện tượng, thế rồi, người ta nhận ra rằng có những chuyện chúng không làm được với vật lý học cổ điển và các lực cơ bản, một lý thuyết mới về lượng tử triển khai vào những năm tám mươi soi sáng rất nhiều thứ về cấu trúc hạt nhân nguyên tử và lỗ đen, gắn với tên tuổi của Stephen Hawking, những năm tôi theo học chương trình cử nhân toán, những ông thầy bắt đầu thì thào nói về một lý thuyết mới, hãy còn bí ẩn nhưng hấp dẫn hơn cả lực hấp dẫn, lý thuyết Dây hoặc Siêu dây, String theory, ở đó các hạt nhỏ bé của vật chất được xem là các sợi dây, và vũ trụ được dệt nên bởi chúng, các sợi rung động ấy, lý thuyết dây là một thuyết hấp dẫn lượng tử, thời tôi đi học, không có một trường đại học nào ờ Bắc Mỹ mà không chạy đôn chạy đáo kiếm cho ra một nhà lý thuyết siêu dây khiêng về làm giáo sư, không có một ông như thế thì trường tụt hạng ngay, những năm tám mươi, người ta phát hiện ra sự giãn nở của vũ trụ, té ra vũ trụ không đứng yên một chỗ, và sau vụ nổ lớn, trong một phần li ti nhỏ của một dây, vũ trụ bắt đầu giãn nở, và sự giãn nở ấy ngày một tăng lên do năng lượng tối.
Và thế là năng lượng tối tràn ngập những năm tám mươi của chúng ta. Năng lượng tối có thể còn cần phải chứng minh nhưng năng lượng xấu thì đầy rẫy thế gian, Liên xô đưa quân vào Afghanistan, lặp lại sự sai lầm của người Mỹ tại Việt Nam và sẽ sa lầy ở đó, cuối những năm tám mươi, khi tôi bắt đầu đi thực tập ở bệnh viện, AIDS hay SIDA bùng nổ ở Hoa Kỳ, được xem là có nguồn gốc từ Phi châu. Năm 1982, năm trăm người Mỹ chết vì căn bệnh này, sau đó lan rộng trên toàn thế giới, con siêu vi trùng đã mang đi 35 triệu người, nhiều người tin rằng đó là lời cảnh giác của thượng đế đối với phong trào tự do tình dục.
Của những năm tám mươi, khi tôi về Việt Nam đến thăm một làng ở miền đông Nam bộ, đó là làng quê hẻo lánh, nghèo khó, khi một con đường xa lộ lớn được mở ra, chính quyền thực hiện lệnh mua lại đất và di dời, đẩy giá nhà đất lên cao, trong một thời gian ngắn, những người nông dân bỗng trở nên giàu có đáng kinh ngạc, khi một người trở nên giàu có bất ngờ, anh ta không biết phải làm gì, một dân tộc như dân tộc Việt Nam cũng thế, một giai cấp cũng thế, khi người ta bỗng nhiên giàu lên một cách bất ngờ, khi người ta thắng cuộc một cách bất ngờ, khi người ta nắm được quyền lực một cách bất ngờ, khi người ta sở hữu một người đàn bà đẹp một cách bất ngờ, người ta trở nên luống cuống, hoặc anh ta trở nên tê liệt hoàn toàn, hoặc anh ta trở nên một kẻ cuồng dâm tàn bạo, thích uống tinh dịch của chính mình, những người xưa kia vốn nghèo khổ bỗng thấy mình có quá nhiều tiền đâm ra rượu chè cờ bạc, gái gú, trong vòng ba năm, tất cả những trai trẻ ở ngôi làng mà tôi đến thăm ấy đều bị nhiễm SIDA, chết hết.
Năm 1981, tổng thống Reagan bị bắn bởi John Hinckley ngày 30 tháng 3, Hinckley bắn tổng thống trong để lấy le với nữ diễn viên nổi tiếng Jody Foster, với Gorbachev và sự giải phóng của nhân dân Liên Xô và Đông Âu, sự sụp đổ của bức tường Bá Linh, cuộc chiến tranh lạnh kéo dài nửa thế kỷ kết thúc, thế giới không còn chia hai, nhân loại hòa hợp, nhiều người nghĩ tới Thiên đàng, đó là giấc mơ quái lạ, hễ khi nào nhân loại im tiếng súng, chợp mắt ngủ một lát, là họ mơ ngay tới cõi ấy.
Cho tôi một vé đi Thiên đàng.
Thưa bà, bà mua vé khứ hồi hay một chiều?
Con người ngây thơ hơn chúng ta tưởng, con người hồn hậu hơn các cuộc chiến tranh mà họ gây ra, các tội lỗi mà họ làm nên, chỉ cần mọi sự qua đi, chỉ cần binh đao kết thúc, chỉ cần được tha thứ, là họ quên đi, có đúng thế không, anh? Liên Hương hỏi tôi lúc chúng tôi đứng chờ xe lam ở bến xe miền Tây một ngày tháng chạp, một người con gái khác, hỏi tôi câu ấy trong một quán ăn mở khuya ở phố Tàu, New York, bốc mùi hành mỡ, rác và xác chuột thối rữa, ở đó, giữa những cảnh ấy, bàn tay của nàng thơm mùi xà phòng hiệu Dial có hương lavender, những năm tám mươi, ngồi trên chiếc sà lan trên biển đậu gần giàn khoan dầu của Anh, Canada, Mỹ, Đan Mạch, nhìn ngọn lửa rực rỡ trong đêm tối, như vũ nữ nhảy múa trong ngày hội, tôi nghĩ: thượng đế trước đây là một người đàn bà.
Thế giới sai lầm, con người không hoàn toàn tự do ra khỏi tội lỗi của mình, tội lỗi của mỗi người, của một cộng đồng, của một dân tộc vây hãm chúng ta, không phải mọi thứ chúng ta đều nhớ lại, nhưng những giây phút đẹp nhất và những giây phút đau buồn nhất mãi ở lại trong ký ức của bạn, trong ký ức của nhân loại, và đến một lúc, chúng lên tiếng, đến một lúc, chúng muốn lặp lại chính mình, tội ác muốn sinh ra tội ác, sự hối hận muốn sinh ra sự hối hận, lòng thương tiếc sinh ra thương tiếc, ai đã nói thế? Có ai nói thế không? Milosz là nhà thơ Ba Lan và theo Brodsky có lẽ là nhà thơ lớn nhất thế kỷ 20, quan tâm đến lịch sử, luân lý, những niềm tin, làm thơ trong tiếng Ba Lan, tự dịch sang tiếng Anh và viết thẳng trong tiếng Anh, Milosz cũng là một nhà phê bình, giải thưởng Nobel 1980, những năm tám mươi, lần đầu tiên tôi chứng kiến một hiện tượng kỳ lạ, một người bạn lái xe chở tôi về nhà, từ xa tôi thấy cánh cửa nhà để xe bật mở, mới đầu tôi nghĩ rằng có một người nào ở bên trong mở cửa cho chúng tôi, tuyệt không, là người say mê các hiện tượng vật lý, tôi bị ám ảnh, đó là sự khởi đầu của cái remote control, điều khiển từ xa, thời ấy có thể dùng siêu âm, sau này dùng tia hồng ngoại, cái điều khiển từ xa này đã chi phối tất cả thiên hạ đến nỗi chúng ta không thể nào tưởng tượng đời sống không có chúng, không phải khi nào bạn cũng yêu thích nó, khi chúng bị hỏng hóc, bạn chỉ muốn mở cửa xe bằng tay, ấn nút truyền hình bằng tay, con người chống lại công nghệ hóa nhưng vẫn say mê chúng, ký ức là một nơi chốn khó khăn, bạn muốn tới đó nhưng bạn không biết đường, đôi khi ký ức của con người phản bội họ, đôi khi lòng hoài niệm làm cho chúng ta trở nên đáng ghét so với người khác, không ai thâm nhập được vào cõi hoài niệm của chúng ta, ở đó chúng ta cất giữ những điều một mình mình biết một mình mình hay, khi bạn thất vọng, kỹ thuật giúp cho bạn rất nhiều: điện thoại, remote control, ti vi, khi bạn hạnh phúc, bạn cũng cần đến chúng, nhưng ít hơn nhiều, trong một căn nhà trống rỗng, đời sống của bạn trở nên đầy đủ vì các dụng cụ điện tử, bạn cảm thấy không cần một người nào khác nữa, cho đến khi quá muộn, vì có điện thoại thông minh, bạn cảm thấy không cần phải đọc sách nữa: chúng vừa nặng vừa tốn tiền, lách cách lỉnh kỉnh, không biết cất vào đâu, giờ đây những năm tám mươi chúng ta chỉ có remote control và khi gọi điện thoại về quê tôi phải làm hẹn với tổng đài điện thoại ở Sài Gòn và những người thân của tôi phải chầu chực rất lâu ở bưu điện, năm bảy lần gọi mới có một lần bắt được, lần đầu tiên tôi nghe được tiếng nói của mẹ trên điện thoại viễn liên, tiếng của bà như từ một thế giới nào, nhưng hôm ấy tôi may mắn vì nghe được từng chữ của người, tôi nghe lại được thứ tiếng Việt mà tôi nhớ, một ngôn ngữ lúc ấy ở đây vẫn còn lạ.
Đi rửa mặt đi con.
Mẹ tôi nói thế, tôi trở vào nhà ngồi ngay ngắn bên mâm cơm, bát canh rau mu ống, đĩa cá kho, chén cà pháo, nồi cơm bốc khói, những người Việt lưu lạc ở châu Âu, châu Mỹ, đều nhớ về quê hương của mình như nhớ nồi cơm của mẹ, nhưng chúng ta nhớ một điều đẹp nhất về một sự vật là khi chúng ta nhớ thơ của một ngôn ngữ, chúng ta cần một văn bản thơ của đời sống, bởi vì thơ ca nằm sâu trong ngôn ngữ như vàng trong cát, ngọc trong đá, như nghĩa trong chữ, như nhạc trong câu, tại sao 1986? Gorbachev đảm nhận chức Tổng bí thư ban chấp hành trung ương đảng Cộng sản Liên Xô từ năm 1985 và Tổng thống Liên xô giai đoạn 1990-1991, những năm tám mươi: của Gorbachev và Reagan, hai người đàn ông đẹp nhất, người tỵ nạn từ Việt nam đến Hồng kông, xung đột đẫm máu, liên tiếp nhiều năm, giữ những người tỵ nạn mang cờ vàng và những người tỵ nạn mang cờ đỏ, nhiều người chết và bị thương, cảnh sát can thiệp, bị tấn công lại, người dân Hương cảng từ chỗ thông cảm và giúp đỡ nay quay mặt lại với người Việt, họ gọi xung đột đó là cuộc chiến Việt nam kéo dài đến Hương cảng.
We were riding through frozen fields in a wagon at dawn.
A red wing rose in the darkness.
And suddenly a hare ran across the road.
One of us pointed to it with his hand.
That was long ago. Today neither of them is alive,
Not the hare, nor the man who made the gesture.
O my love, where are they, where are they going
The flash of a hand, streak of movement, rustle of pebbles.
I ask not out of sorrow, but in wonder.
Chúng tôi lái xe qua cánh đồng băng tuyết vào buổi sáng
Một cánh hồng trong tối
Và bỗng nhiên một con gà chạy qua đường
Một người trong chúng tôi đưa tay chỉ
Có thế thôi. Cũng lâu rồi. Bây giờ
Không có ai trong những người ấy còn sống. Con gà, người đưa tay chỉ
Hỡi em yêu, bây giờ họ ở đâu, họ ở chỗ nào rồi
Anh chớp một bàn tay, một giây lát
Tiếng rì rào của sỏi đá
Anh chẳng buồn đâu anh chỉ ngạc nhiên thôi
Milosz viết bài thơ này khi còn trẻ ở Wilno, Lithuania, quê hương ông, sự lan tỏa của ký ức, của hiện hữu, hình cảnh của chú gà, bàn tay chỉ, người đàn ông, buổi sáng, cánh đồng, thế rồi tất cả biến mất, sự tạm thời, cái khoảnh khắc làm ta chạnh lòng: họ ở đâu? về đâu? rồi khi nào đến chúng ta? Của Nguyễn Duy, nhìn từ xa tổ quốc:
Sứ sở linh thiêng
Sao thật lắm đình chùa làm kho hợp tác
Đánh quả tù mù trấn lột cả thần linh
Giấy rách mất lề
Tượng Phật khóc đức tin lưu lạc
Nguyễn Duy viết bài thơ này ở học viện Maxime Gorky năm 1989, đăng trên Sông Hương, thời kỳ lừng lẫy của tạp chí này, đây là một bài thơ hay, nhưng điều chính yếu là thông điệp dù được trình bày một cách thẳng thắn, chưa bao giờ được nhận ra một cách rõ ràng ở Việt Nam, tôi ngạc nhiên là bài thơ này được công bố, vì nó có sức mạnh làm đảo lộn tất cả, theo sát phong trào cởi mở và tái cấu trúc của Gorbachev, năm 1986 được xem là khúc quanh đổi mới, cuộc vận động văn học trong nước thật ra đã ngấm ngầm diễn ra từ sau năm 1975, nhưng chỉ từ 1986, văn học mới tìm thấy tiếng nói của mình, so với thơ, tiểu thuyết vượt lên rất xa, tiếng nói của thơ yếu ớt, và cho đến nay nó vẫn yếu ớt như vậy, năm 1986 đại hội đảng cộng sản lần thứ nhất, nhờ một số chính sách cởi mở, những nhà văn đi đầu, nhờ sự hội nhập với thế giới, và quan trọng nhất là nhờ lòng say mê của người viết, tiểu thuyết đạt được các thành tựu mà không thể nào sánh được, đời sống nông thôn Việt Nam: Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Bến không chồng của Dương Hướng, Ba người khác của Tô Hoài, Lão khổ của Tạ Duy Anh, Gia phả của đất của Hoàng Minh Tường, chủ đề chiến tranh, một vài tác giả có tinh thần hòa hợp dân tộc nhưng trong tư thế của người chiến thắng: Thời xa vắng của Lê Lựu, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Vùng Lọ của Nguyễn Quang Hà, Vùng Sâu của Tô Nhuận Vỹ, tiểu thuyết lịch sử bắt đầu phát triển: Đội gạo lên chùa của Nguyễn Xuân Khánh, Đất trời của Nam Dao, Sông côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Hội thề của Nguyễn Quang Thân, những năm tám mươi tôi bắt đầu đọc Nguyễn Khải và đọc kỹ, nhận ra mặt sáng và mặt tối của một nhà văn cách mạng, một lối văn tài năng và một nhân cách bé tíTiểu thuyết không những vượt lên khỏi thơ giữa các đề tài mà còn là cách thể hiện, thơ cần phải học ở nó nhiều điều: sự xông xáo, sự làm mới, cách viết dũng cảm, nhà văn nào không bám vào cốt lõi sau đây thì tác phẩm dù hay ho đến mấy, nghệ thuật cao siêu đến mấy, cuối cùng cũng bị vứt vào sọt rác: tự do, dân tộc, tự mình đứng vào phía đối phương để nhìn ra sự thật từ phía khác, những ai muốn biết hòa giải là gì thì đến bức tường Bá Linh những năm tám mươi, chín mươi, để nhìn người Việt miền Bắc người Việt miền Nam bắt tay nhau, ôm lấy nhau: trong tự do, ứa nước mắt mừng vui, những ngày ấy nhờ Mary Oliver và Czeslaw Milosz mà tôi yêu thơ, Milosz làm tôi nhớ lại Quang Dũng, Đinh Hùng, Thanh Tâm Tuyền, tôi mượn sách ở thư viện, những cuốn sách thơ không mấy ai đọc, tôi gia hạn chúng nhiều lần, tôi tập viết những bài thơ của mình rải rác đâu đó, đóng thành tập rồi bọc lại, rồi xấu hổ vất đi, những năm tám mươi tôi say mê bóng đá, tôi nhìn thấy Maradona chạy trên sân cỏ, chàng trai Nam Mỹ này đã chơi bốn trận cúp thế giới, đã để lại một ấn tượng kỳ lạ, đối với nhiều người là một thiên thần, đối với nhiều người khác là một con quỷ, sau Maradona, mọi thứ đều trống rỗng, tôi gặp lại một người bạn học cũ, nhiều năm sau, nhớ bạn, tôi kể lại trong bài thơ:
Ghé thăm bạn cũ nay làm xếp ga
Như một đôi giày cũ
Rách trước rách sau
Khâu xong chiếc này
Lại vá chiếc kia
Bạn tôi bảo, tay cầm tờ báo thể thao,
Đã hết mùa bóng đá rồi
Chẳng còn gì vui
Ở đây ai cũng chán ngấy cuộc sống này
Tôi rủ anh đi dạo dọc đường rầy
Buổi chiều hè nóng nực
Anh vừa đi vừa đá lon Coca lăn lông lốc
Tôi nhặt một viên đá, định ném ra xa
Lại đổi ý, đem về nhà
Đặt lên cửa sổ phòng bạn tôi
Khi đi xa rồi
Tôi vẫn còn nhớ lại
Hòn đá đứng im, in bóng lên nền trời
Với cặp mắt xám
Vầng trán rộng
Và chiếc cằm dài
Không có tai
Của một người
Không biết làm gì với ngày mai
Không có lý tưởng để theo đuổi
Đang đứng ở khoảng sáng cuối đường
Thỉnh thoảng cúi xuống khâu giày.
Milosz là một di dân, một người Ba Lan chính hiệu, một tâm hồn thơ mộng, trí tuệ sắc sảo, tôi tìm thấy ở ông rất nhiều điều quen thuộc, tình yêu và tự hào đối với quê hương xứ sở.
Những bông mẫu đơn nở sáng, trắng và hồng
Bên trong chúng, như trong cái bát thơm hương
Những con côn trùng nhỏ bắt đầu trò chuyện
Vì những đóa hoa đã để dành riêng cho chúng, ngôi nhà
Milosz tham gia cuộc kháng chiến chống Đức quốc xã trong đệ nhị thế chiến, trốn chạy Quốc xã qua Pháp năm 1951, sau đó định cư ở Mỹ, thơ ông đầy niềm đau và nỗi vui được làm người, lòng hoài niệm và tầm nhìn viễn kiến đối với tương lai, những điều mà tôi theo đuổi, đọc ông và các nhà thơ Ba lan,các nhà thơ Mỹ và Stenvens, tôi cảm xúc được đời sống, thơ là sự tái lập sự sáng tạo các quá trình của sự sống, tiểu thuyết thì khác, nó không phải là sáng tạo: tôi tìm thấy sự tự ý thức về mình và lòng thương xót nhân loại, kể cả kẻ thù.
Từ hôm ấy, không còn một suy nghĩ nào nữa, một cảm xúc nào, một luân lý nào nữa. Từ hôm ấy anh chỉ còn một thứ công việc: nghĩ đến người đàn bà anh gặp. Không phải vì sắc đẹp của nàng, mặc dù đó là người đàn bà đẹp, không phải vì tình yêu cuồng dại vì đó không chỉ là một tình yêu cuồng dại, không phải vì tội lỗi, vì đối với anh ngay vào lúc ấy, nó đã tội lỗi, mà vì tất cả những điều không thể xảy ra, đã một lần xảy ra. Tựa như bạn không bao giờ tin rằng con người có thể bay lên cuối cùng đã nhìn thấy một người bay lên như vậy, và bạn biết chắc rằng đó không phải là ảo giác, như người đi trên sa mạc uống một thứ nước trong vắt trên tay. Bạn nhìn thấy một người đã chết sống lại. Kyra đã từ bị bắt đi, đã chết trong chiếc thuyền của bọn cướp biển và đã sống lại. Liên Hương là Kyra. Hai người là một. Sự tỏa sáng của nàng như một nguồn sáng của nỗi thèm muốn, ao ước, nóng bỏng, buồn bã, hung dữ và đáng thương.
Tất cả không phải lỗi nàng, đã kết thúc như thế. Sẽ không ai tin điều đó cả. Bất cứ một điều gì mà tôi nhìn thấy đều vương vấn hơi thở của nàng, thơm, nóng. Khi tôi nhìn lại những năm tháng với Kyra, tôi chỉ nhìn thấy những buổi chiều vàng hổ phách, bức tường vôi trắng cũ, mùi hoa hồng héo rũ và hoa lài thơm trong đêm trên những quãng đường chúng tôi đi qua từ chỗ làm của nàng ra về, từ tiệm cắt tóc, mùi nước hoa, cái bóng của gác chuông nhà thờ đổ xuống trên hai chúng tôi tựa như hình ảnh của chúng tôi. Chim chóc ở đây thật nhiều, một con vừa đậu xuống trên vai nàng khi Kyra đứng một mình, nhưng khi tôi đến, nó bay mất.
Em có yêu anh không?
Đó là một câu hỏi tệ nhất của một người đàn ông.
Trong giấc mơ em thấy anh làm tình với em?
Im lặng.
Một lát sau.
Đó là một câu nói có tính khiêu khích.
Anh xin lỗi.
Em có nằm mơ không?
Em chỉ nằm thấy ác mộng.
Em nhìn thấy gì?
Một người bị rượt đuổi.
Em có tin vào thượng đế không ?
Không
Em có tin vào thế giới không?
Không.
Hai đứa nằm trên sàn nhà, mồ hôi trên người tôi làm sàn gỗ bóng như mặt gương. Tôi ở trần, mặc quần soọc. Kyra mặc áo đầm mỏng trong nhà. Bỗng nhiên nàng nói:
Em không thích ai nhìn bộ ngực của em.
Nó quá lớn hay sao?
Không, như một người đàn bà đã có con.
Đừng đặt tay lên ngực em.
Tôi rút tay ra.
Em có hạnh phúc không?
Có .
Em có muốn sự thay đổi không?
Không.
Trong vườn, đêm đã khuya, không khí dịu lại, mùi thơm của mộc lan của hơi đất bay lên đến tầng thứ năm nơi chỗ chúng tôi nằm. Có một góc vườn nhỏ nàng trồng đủ loại cây cỏ. Tôi nghe được mùi thơm bạc hà, tía tô, hành, oải hương. Nàng ngồi xuống, hái một bó bạc hà cho bữa ăn tối nay. Ngực nàng nhỏ nhưng căng cứng. Mông tròn trịa. Một trái táo nhỏ rơi xuống trên vai nàng. Khu vườn đẹp. Nàng săn sóc nó suốt những năm dài ở một mình, hoàn toàn cô độc hoàn toàn trinh nữ, hoàn toàn tuyệt vọng.
Hãy nói cho em nghe về tình yêu.
Tình yêu của ai?
Của chính em.
Anh không biết.
Những năm tám mươi, ngày mồng một Tết, tôi đứng một mình trong sân của khu nội trú. Cuối tháng Giêng ở đây trời rất lạnh, nhưng giữa hai đợt tuyết xuống, trời khô ráo, mọi vật lấp lánh tinh thể. Tôi đọc một bài thơ Triều Tiên được ai đó dịch ra tiếng Anh:
Một thằngbé đến bên cửa sổ
La to đây là mồng một Tết
Tôi mở hết cửa ra
Nhưng trông xa mặt trời mỗi ngày lại mọc
Ê thằng bé kia, mặt trời cũ ấy mà
Khi nào mới con hãy kêu ta
A boy comes by my window
Shouting that is New Year
I open an eastern lectuce
The usual sun has risen
Look it, is it the same old sun
Wake me when the new one dawn
Đó là một Nguyên đán kỳ lạ, giữa bốn bức tường bệnh viện, lòng tôi một nửa ấm áp một nửa giá lạnh. Tôi mất ngủ, người tái xanh, môi thâm lại. Bà y tá già, trưởng phòng hộ sinh, gốc Phi châu, chạm tay vào trán tôi, nói: con ơi. My son.
Trong trại giam K, nơi tạm giam giữ các tù nhân, đêm đêm chúng tôi nghe thấy tiếng khóc của phạm nhân từ phòng tra tấn. Từ đó, tôi thường nằm mơ nghe thấy tiếng la hét của họ. Em không tin rằng trên đời tồn tại một thứ gọi là tình yêu. Em tin rằng tình yêu dục tính là một tình cảm loại trừ tình thương yêu con người, như tình mẫu tử, tình bè bạn. Sex không phải là sự gắn bó giữa hai người. Đó là sự chiếm hữu. Em ghê sợ sự chiếm hữu.
Anh không đồng ý.
Tình yêu phải là sự hóa thân: bạn trở thành người khác.
Anh đồng ý.
Tôi nhớ lại em đứng trong tiệm giặt ủi quần áo, mặt trời chiều xuống, hắt ánh sáng vàng lên nửa khuôn mặt, một thứ ánh sáng lạ lùng, không hắt bóng. Đó không phải là cánh cửa mở ra khu vườn như những cánh cửa khác, đó là cửa sổ thông giữa phòng làm việc của em, nơi giặt ủi đầy hơi nước, nóng và lạnh, và căn phòng rộng lớn chạy rầm rì những máy giặt tự động dùng tiền kẽm. Ánh mặt trời đi qua nhiều lần cửa trước khi tới được khuôn mặt em, tái xám, nóng bỏng. Tôi cảm thấy có lỗi khi nghĩ về Liên Hương trong khi trong tay ôm một người đàn bà khác. Có lỗi với cả hai. Nhưng tôi không làm gì được. Tôi nghĩ rằng cả hai là một.
Anh có thể làm được gì cho em không?
Không.
Anh có thể làm gì để tránh cái chết của em?
Có thể.
Có một khuôn mặt nào đẹp hơn khuôn mặt hôm ấy, trong cửa sổ?
Không.
Có hệ trọng gì không với nhân gian, tình yêu của chúng ta?
Có.
Căn phòng cũ, tối, chiếc xô pha bằng da sờn màu đỏ nâu vừa hoàn toàn thích hợp với căn phòng vừa đứng tách ra một mình,. Sau lưng em vải da bị sờn rách một lỗ lớn nhưng em không nhìn thấy. Cái ghế ngắn em nằm vừa lọt thỏm nhưng anh thò chân ra. Trên sàn nhà cái tách cà phê của anh uống chưa xong. Xa hơn là cuốn Tao Te Ching và tập thơ của Darwin, nhà thơ Palestine mà anh yêu mến. Buổi chiều muộn, nắm nóng hầm hập, suốt một dãy nhà dài không bóng cây. Trong khi chờ em về, anh không tìm thấy một bóng mát nào có thể núp được. Ngôi nhà của em ở không khác gì trại tập trung. Khi mặt trời sắp lặn nó giống như một cơn mưa. Khi chúng ta leo lên thang gác ngoài trời đến tầng thứ năm, em bảo mỗi lần leo lên và leo xuống, em đều nhắm mắt lại vì bị chóng mặt. Mặt trời vừa lặn, bầy hạc, bầy sếu, bồ nông đã bay rào rào qua mái nhà vươn những đôi cánh rộng của chúng như giấc mơ khác. Trong khi anh cởi quần áo ra theo yêu cầu của em, em nằm trên ghế xô pha, nhắm mắt lại, nhưng để nguyên quần áo. Nhìn vào khuôn mặt tái, làn mi rung động, anh chậm bước theo em đi vào giấc mơ của em. Chủ nghĩa hiện đại thiếu khả năng tự phân tích chính mình, nhìn thấy nó từ một điểm nhìn bên ngoài hệ thống. Chủ nghĩa hậu hiện đại thường xuyên phá vỡ các quy ước hiện đại, giải cấu trúc các niềm tin văn hoá, sử dụng sự phê phán và giễu cợt để giữ một khoảng cách với các giá trị xác lập. Chính vì thế, chủ nghĩa hậu hiện đại chỉ giữ vai trò phụ thuộc: nó phụ thuộc vào chính các hệ thống mà nó phê phán. Không có các hệ thống ấy, chủ nghĩa hậu hiện đại trở nên vô nghĩa. Vì vậy, nó tăm tối. Trước thế giới mới, chủ nghĩa siêu hiện đại (metamodernism) ra đời, đáp ứng những đòi hỏi của con người trước hiện thực đổi thay chóng mặt. Nó nhấn mạnh các yếu tố tâm linh và tinh thần, âm nhạc và các trò chơi, sự gắn bó giữa người và người, lòng tin, sự thân mật. Con người hôm nay cần chữa lành vết thương không phải của chính mình mà của các mối quan hệ giữa họ và người khác, sau chiến tranh lạnh, sau chủ nghĩa cộng sản. Tôi tin rằng chủ nghĩa siêu hiện đại sẽ thay thế chủ nghĩa hậu hiện đại.
Cuộc đời không thể nào đẹp hơn thế. Bây giờ anh tin rằng con người có thể chết vì sung sướng cũng như vì tuyệt vọng. Sau một tai nạn xe hơi thảm khốc trên xa lộ từ New York về Toronto, hai chiếc xe bị lật, chứng kiến một người lái xe chết, óc vỡ nát, Kyra khóc. Hai vai rung lên. Tôi ngồi im, không biết an ủi nàng thế nào. Rồi ngủ thiếp.
Nửa đêm, Kyra kéo tay tôi, nói:
Anh fuck em đi.
Có tiếng kêu khàn đục của bầy ngỗng trời bay thấp ngang qua mái nhà. Tôi nghĩ, đêm nay chúng bay thật thấp.
Nguyễn Đức Tùng
(NOTES)
Chú Thích:
(1)
Here are excerpts from the first of the two court hearings in the Brodsky case, in February and March 1964, as recorded by Frieda Vigdorova, a mem ber of the Leningrad Writers Union who was so shocked by the proceeding that she permitted her notes to be taken out of the country. The translation was done by Coll yer Bowen for The New Leader and appeared in the Aug. 31, 1964, issue of the magazine.
FIRST HEARING
Session of the Dzerzhinsky district court, Leningrad,
36 Vosstanie Street, 18 February 1964
Presiding Judge: Mme. Savelyeva
Defence Counsel: Mme. Z. N. Toporova
Judge – What do you do for a living?
Brodsky – I write poetry. I translate. I suppose …
Judge – Never mind what you “suppose.” Stand up properly. Don’t lean against the wall. Look at the court. Answer the court properly.
(To Vigdorova) Stop taking notes immediately! Or else—I’ll have you thrown out of the courtroom.
(To Brodsky) Do you have a regular job?
Brodsky – I thought this was a regular job.
Judge – Answer correctly!
Brodsky – I was writing poems. I thought they’d be published. I suppose …
Judge – We’re not interested in what you “suppose.” Tell us why you weren’t working.
Brodsky – I had contracts with a publisher.
Judge – Did you have enough contracts to earn a living? List them: with whom, what dates, and for what sums of money?
Brodsky – I don’t remember exactly. My lawyer has all the contracts.
Judge – I’m asking you.
Brodsky – Two books with my translations were published in Moscow. (He lists them.)
Judge – How long have you worked?
Brodsky – Approximately …
Judge – We’re not interested in “approximately.”
Brodsky – Five years.
Judge – Where did you work?
Brodsky — At a factory. With geological groups …
Judge – How long did you work at the factory?
Brodsky – A year.
Judge – As what?
Brodsky – A milling-machine operator.
Judge – And, in general, what is your specific occupation?
Brodsky – Poet. Poet-translator.
Judge – And who said you’re a poet? Who ranked you among poets?
Brodsky – No one. (Unsolicited) Who ranked me as a member of the human race?
Judge – Did you study for this? Brodsky – Study for what?
Judge – To become a poet. Did you attend some university where people are trained … where they’re taught …?
Brodsky – I didn’t think it was a matter of education.
Judge – How, then?
Brodsky – I think that … (perplexed) it comes from God …
(https://chronicle-of-current-events.com/the-trial-of-joseph-brodsky-18-february-1964-excerpt/)