10-9-2025

Khi đến hoặc xem (qua nhiều kênh), ta sẽ thấy rằng ở không gian công cộng hay không gian xã hội nói chung của mỗi quốc gia văn minh sẽ có một vẻ đẹp riêng, nó làm thành dáng vẻ, phong cách và hồn cốt. Ví dụ, đến Pháp người ta thấy đại lộ, quảng trường, nhà hát, thư viện – tất cả đều khẳng định quyền lực của lý trí và tinh thần dân chủ, cộng hòa. Nhật Bản lại khác: mang tinh thần hài hòa – tối giản – đề cao thiên nhiên. Kiến trúc truyền thống thường gắn với vườn, hồ, đá, tre; kiến trúc hiện đại cũng tiếp nối tinh thần này (kính – gỗ – ánh sáng tự nhiên). Ấn Độ lại mang tinh thần tôn giáo, huyền bí, sâu thẳm…
Những ngày qua, hình ảnh quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục sau khi phá “hàm cá mập” và thực hiện chỉnh trang, đã làm người dân cả nước…choáng váng vì độ thô kệch, xấu xí của nó. Tình trạng rậm rạp, lòe loẹt, phô trương, sống sượng ngày càng trở thành hình ảnh quen thuộc, phủ khắp từ phố phường đến nông thôn, đã làm thành cái “phông” chủ đạo của hình ảnh đất nước Việt Nam. Ở đó, người ta rất ít thấy tính thẩm mỹ, chiều sâu văn hóa, sự tinh tế hay trình độ nghệ thuật. Mà ngược lại, là sự lộ liễu trong biểu đạt, sự vụng về trong tuyên truyền, sự nghèo nàn trong ý tưởng, sự nông cạn trong tư duy…
Câu hỏi đặt ra là tại sao lại ra nông nổi như thế? Việt Nam là một đất nước có bề dày lịch sử, có văn hóa – mỹ thuật truyền thống lâu đời và phong phú, có sự tiếp thu văn minh từ Tàu đến Pháp và sau đó thế giới hiện đại, nó cũng không xa lạ với các trường phái và sự dịch chuyển của tư tưởng thẩm mỹ qua các thời đại của nhân loại, vậy vì lý do gì mà ta ngày càng trở nên nghèo nàn, quê kệch, thô lậu như thế?
Tôi nghĩ rằng, thẩm mỹ không đơn thuần chỉ là câu chuyện kỹ thuật hay tay nghề. Nền tảng của nó phải nằm ở “tâm hồn dân tộc”. Một xã hội có chiều sâu văn hóa, có khoa học (nhất là khoa học nhân văn) phát triển, đề cao chân lý, điều thiện và cái đẹp, thì xã hội ấy mới có thể sản sinh ra một thị hiếu và năng lực sáng tạo để tạo nên được khuôn mặt tinh thần riêng, mang màu sắc, phong cách và tư tưởng đặc thù. Nó sẽ phóng chiếu ra trong lối sống, trong cách cư xử, trong trang phục, kiến trúc… Còn khi xã hội ấy nông cạn, khoa học kém phát triển, sự thật (chân lý) không được coi trọng, các giá trị đạo đức đổ vỡ, văn hóa lộn xộn thiếu gốc rễ, xã hội ấy không cách gì có thể tạo nên một không gian có chiều sâu tinh thần và sự tinh tế về mỹ cảm.
Tôi nhớ trong cuốn Thiền Luận, Daisetz Teitaro Suzuki có nhận định rằng, nếu không có thiền thì không có Nhật Bản (như đang thấy). Tôi tin vào quan điểm này, vì thiền thấm đẫm trong đời sống Nhật, từ nghệ thuật cắm hoa, gấp giấy, làm vườn, kiến trúc, thơ ca… Chính cái nền tảng tư tưởng – tinh thần ấy là suối nguồn, vừa sản sinh, vừa nuôi dưỡng, vừa giữ gìn, để Nhật Bản dù là quốc gia hiện đại đến đâu vẫn toát lên tinh thần của sự tối giản, gần gũi thiên nhiên và cực kỳ tinh tế. Kiến trúc và cách thức tổ chức của xã hội phương Tây lại mang đến hình ảnh của sự thực dụng, ngăn nắp, lý trí, nhưng cởi mở và rộng rãi. Điều này có lẽ do tư tưởng và tinh thần khai phóng, tự do mang lại.
Trong khi đó, thẩm mỹ của Việt Nam (ngày nay) vẫn nặng mỹ học chính trị thời chiến, chạy theo thị hiếu thị trường, nặng tính phô trương – trọc phú, thiếu ý thức bảo tồn truyền thống và ít sáng tạo.
Nền văn hóa Việt Nam quá phong phú, chủ thể của nó là cư dân của 54 dân tộc anh em sinh sống và làm thành các cộng đồng đặc sắc trên khắp lãnh thổ. Người Thái, người Mường, người Hoa, Ba na, Ê đê, người Kinh, người Chàm…, tất cả đều mang vẻ đẹp riêng vốn được sinh thành từ chiều sâu văn hóa của chính họ. Nhưng sự đồng phục hóa, kém giữ gìn, ít coi trọng, lại nặng ý chí tuyên truyền đã dần làm mai một, thậm chí phá sản các vẻ đẹp ấy.
“Cái đẹp cứu rỗi thế giới”. Tôi quan niệm rằng, trong ba giá trị chân – thiện – mỹ, thì mỹ (cái đẹp) có mối quan hệ nhân quả với hai phạm trù đầu. Và đến lượt nó, cái đẹp giữ một ví trí không thể thay thế, nằm trên nấc thang cao nhất, giúp thanh lọc tâm hồn, cứu vãn đời sống và nâng đỡ nhân sinh. Một khi không còn phân biệt được đẹp xấu, cũng không thể làm ra cái đẹp được nữa, thì cộng đồng ấy, quốc gia ấy khó lòng mà phát triển hay đi xa.
Cái đẹp chỉ được tạo ra hay cảm nhận được, khi chủ thể văn hóa của nó là một cộng đồng có tâm hồn, trí tuệ, sự lương thiện và những khát vọng lớn lao. Tìm kiếm vẻ đẹp của truyền thống, tôn trọng thiên nhiên, đề cao tinh thần nhân văn, tôn trọng tính bình đẳng văn hóa, tiếp thu văn minh của nhân loại, phải chăng là những thay đổi cần thiết và cấp bách để sớm làm thành nền móng cho một nền thẩm mỹ Việt Nam, cũng là cho tâm hồn Việt Nam?
