Nhà thơ kiêm nhà ngoại giao nước Chile PABLO NERUDA (1904-1973) đoạt giải Nobel văn chương năm 1971. Có thể nói Neruda là nhà thơ Nam Mỹ được thế giới biết đến nhiều nhất, vớithi tập đầu tay của ông viết năm 20 tuổi tựa đề Hai mươi bài thơ tình và một bài ca tuyệt vọng (Veinte poemas de amor y una canción desesperada) đã bán được trên một triệu cuốn và đã được dịch sang hơn 20 ngôn ngữ từ đó đến nay.
Tốt nghiệp văn chương Pháp tại Universidad de Chile, Neruda đã lẫy lừng danh tiếng thế giới sau khi xuất bản thi tập đầu đời nêu trên, dựa vào một mối tình tan vỡ đắng cay. Hoạn lộ của Neruda bắt đầu khá sớm khi nhà thơ được bổ nhiệm làm lãnh sự Chile tại Miến Điện. Những năm sau đó ông được thuyên chuyển đến các nhiệm sở ngoại giao tại các quốc gia khác ở Á Châu và Âu Châu và tiếp tục viết cho các chuyên san văn học cũng như báo chí. Neruda gia nhập chính trường, đắc cử vào thượng viện, gia nhập đảng cộng sản, từng bị lưu vong, rồi chán ngán chủ thuyết cộng sản sau khi được biết những tội ác tầy trời xảy ra dưới triều đại Stalin.
Mặc dù đã thành công lớn trong lãnh vực ngoại giao và chính trị, làm thơ vẫn là mối đam mê lớn nhất của Neruda. Thi tập Cơ ngơi trên trái đất (Residencia en la tierra) gồm các bài thơ viết từ 1933 đến 1947 nói lên sự suy thoái xã hội cùng sự cô lập cá nhân. Thi tập đồ sộ Bài ca tổng quát (Canto general) gồm 340 bài thơ xuất bản năm 1950 là một thiên anh hùng ca đề cao Mỹ Châu La Tinh. Những năm sau cùng cuộc đời, danh vọng Neruda lại càng lên cao – ông đoạt giải Nobel văn chương năm 1971, khi đang làm Đại sứ Chile tại Paris từ năm 1970 đến năm 1972.
Pablo Neruda đã sống với vài phụ nữ trong cuộc đời, nhưng đó chỉ là những mối tình sóng gió mau chóng dẫn đến đổ vỡ. Năm 1955 Neruda cưới ca sĩ MATILDE URRUTIA, một người cùng quê quán mà ông quen từ trước. Matilde trở thành người vợ sau cùng cũng như Nàng Thơ đích thực của Neruda. Pablo thường yêu dấu gọi Matilde là “nữ hoàng và mệnh phụ của mọi ngày trong tuần, của mọi thời điểm.” Nàng cung cấp thi hứng ngập trời cho những bài thơ trác tuyệt trong các thi tập Những vần thơ người thuyền trưởng (Los versos del capitán) và Một trăm bài thơ tình (Cien sonetos de amor). Matilde Urrutia (1912-1976) học âm nhạc từ nhỏ. Theo lờithân nhân và bạn bè kể lại thì Matilde là một phụ nữ hấp dẫn, tràn đầy nhựa sống, tóc màu hạt dẻ, rất thông minh lanh lợi, tính tình nồng thắm, chơi dương cầm thiện nghệ, hát như chim sơn ca, thích bơi lội và trồng hoa. Nàng gặp Neruda lần đầu tại Âu Châu năm 1946, và khi hai người tái ngộ năm 1949 tại Mễ Tây Cơ thì nàng nhất quyết bỏ hết mọi chuyện để từ đó luôn sống bên chàng. Tình yêu mầu nhiệm của Matilde đã giúp Neruda vượt khỏi những khó khăn gây ra bởi chính trị cũng như bệnh hoạn. Cặp tình nhân sau đó sống những ngày tháng êm đềm tại Đảo Capri trên Địa Trung Hải. Chính tại đây, Neruda đã viết những bài thơ tình tuyệt vời cho Matilde trong thi tập Los versos del capitán xuất hiện năm 1952. Năm 1959 Neruda cho xuất bản thi tập Cien sonetos de amor cũng để tặng Matilde, người mà thi nhân trìu mến gọi là “ánh sáng ban ngày và ban đêm của tôi.”
Trong phạm vi nhỏ hẹp của bài viết này, tôi chỉ xin được chuyển sang tiếng Việt một số bài mà tôi cho là tuyệt tác trong thi tập Los versos del capitán. Thi tập này được Neruda cho phổ biến để ghi khắc thời gian thi nhân đang đắm say trong lưới tình của Matilde, lúc mà quả thực “yêu nàng ta làm thơ”! Yêu đến nỗi thi nhân viết cả những lời thơ cho nàng lên trên … khăn lau miệng trong tiệm ăn! Neruda là một người viết thơ tình rực lửa. Những bài thơ chứa chan tình ái này chứa đựng nhiều hình ảnh chân thực và cực kỳ thân mật qua một lối viết khi thì nhẹ nhàng êm ái, lúc thì chất ngất đam mê hoặc bâng quơ hằn học. Trong những bài này, Neruda diễn tả ý thơ một cách rất giản dị, rất bộc trực, và do đó thơ của ông có thể được chuyển ngữ dễ dàng mà không sợ bị mất đi giá trị nguyên thủy. Xin mời thưởng lãm sáu bài thơ Pablo Neruda viết cho Matilde Urrutia đã được tôi chuyển sang tiếng Việt dưới đây.
HAI BÀN CHÂN EM
Khi anh không nhìn được mặt
anh ngó đôi bàn chân em.
***
Đôi bàn chân bằng xương uốn cong,
đôi bàn chân xinh xinh cứng cáp.
***
Anh biết chúng chống đỡ em,
và cả tấm thân em
vươn lên từ chúng.
***
Eo bụng và ngực em,
đôi núm nhũ hoa tím đậm
hốc mắt sâu, miệng thơm mùi cây cỏ
suối tóc hung hung đỏ,
tòa tháp nhỏ của anh.
***
Nhưng anh yêu đôi bàn chân em
chúng đã bao nhiêu ngày lê bước
trên đất trong gió và trên nước
cho đến khi chúng kiếm ra anh.
NỮ HOÀNG
Anh đặt tên em là nữ hoàng.
Có những người cao hơn em.
Có những người băng trinh hơn em.
Có những người yêu kiều hơn em.
***
Nhưng em là nữ hoàng.
***
Khi em quá bộ ra phố
không ai nhận ra em.
Không ai thấy vương miện của em, không ai
thấy tấm thảm bằng vàng đỏ
trải ra để chân em bước tới,
tấm thảm vô hình.
***
Nhưng khi em xuất hiện
tất cả những giòng sông náo động
trong thân anh, những tiếng chuông
lay chuyển cả bầu trời,
và một thánh ca ngập tràn thế giới.
***
Chỉ có em và anh,
em yêu ơi, chỉ có em và anh
lắng nghe bài thánh ca ấy.
TIẾNG EM CƯỜI
Nếu em muốn, hãy lấy đi thức ăn,
hãy lấy đi không khí, nhưng
chớ lấy đi tiếng em cười khỏi đời anh
***
Đừng lấy đi nụ hồng em đã hái
những giọt nước long lanh
vì em vui mà bộc phát
***
Cuộc đấu tranh khổ ải, anh trở lại
với đôi mắt mệt mỏi vì đã
thấy cuộc đời không thể đổi thay
nhưng tiếng em cười
khi vang lên không trung
đã mở ra cho anh tất cả
những cánh cửa cuộc đời
***
Em yêu, trong giây phút tối tăm nhất
tiếng em cười hãy cho anh bám víu, và nếu bất chợt
em thấy máu anh nhuộm đỏ con đường,
em hãy cười lên, vì tiếng em cười
sẽ là thanh kiếm mới trong tay anh
***
Bên cạnh biển trong mùa thu
tiếng em cười sẽ dâng cao làn sóng bạc đầu
và trong mùa xuân, em yêu
anh thèm tiếng em cười
như đóa hoa anh mong đợi
đóa hồng xanh vang vọng quê hương
em hãy cười ngạo buổi tối
ban ngày, ánh trăng, những con đường
ngoằn ngoèo trên đảo
hãy cười ngạo chàng trai trẻ này đang yêu em
nhưng khi anh trở lại
em có thể không cho anh thức ăn
không khí, ánh sáng,mùa xuân
nhưng đừng bao giờ lấy đi tiếng em cười
vì thiếu nó anh sẽ chết
VẮNG MẶT
Anh đã kịp xa em đâu
mà em đã lại đến với anh, tươi sáng như pha lê
hoặc run rẩy, lo âu như thể bị anh gây thương tích
hoặc choáng ngộp ái ân, như lúc mắt em
khép kín khi nhận lãnh quà tặng cuộc đời
anh chẳng ngừng mang đến cho em
***
Em yêu
chúng mình kiếm ra nhau
trong cơn khát nên đã
uống cạn luôn cả nước và máu
chúng mình kiếm ra nhau
lúc đói lòng
nên đã cắn nhau như lửa
để lại trong nhau những vết thương
***
Nhưng hãy đợi anh
giữ cho anh những ngọt ngào
anh cũng sẽ tặng em
một đóa hoa hồng
MÃNH HỔ
Anh là mãnh hổ
rình em trong đám lá
rộng như những phiến
kim loại ướt
***
Giòng sông trắng nước dâng cao
dưới lớp sương mù, em đến
***
Lõa lồ em ngụp lặn
anh vẫn chờ
***
Rồi trong một nhảy vọt
bằng lửa, máu, răng
với móng vuốt anh xé tan
ngực em, háng em
***
Anh uống máu em, anh bẻ gẫy
chân tay em từng chiếc một
***
Và anh ở lại nhiều năm
trong rừng để canh chừng
đám xương tàn của em
bất động, cách biệt khỏi
căm hờn và phẫn nộ
được những chùm dây leo phủ kín
***
Bất động trong mưa
tên lính canh trai đá
một cuộc tình sát hại
MÃI MÃI
Đối diện em
anh không ghen tuông
hãy đến với một tên đàn ông
trên vai em
đến với một trăm tên đàn ông trong tóc em
đến với một ngàn tên đàn ông giữa ngực và chân em
đến như một giòng sông
tràn ngập những tên đàn ông chết đuối
sắp trôi ra biển dữ
bọt trắng phau
***
Mang tất cả
đến chỗ anh đợi em
chúng ta sẽ mãi mãi cô đơn
chúng ta sẽ mãi mãi, em và anh
cô đơn trên trái đất
và bắt đầu cuộc sống
[Pablo Neruda 1959]
[Đàm Trung Pháp 2019]