“Sơn hạ hồng trần Nam Thoán lộ
Bất tri quan đái kỷ nhân hồi”
Dưới núi, bụi hồng, đường Nam Thoán, không biết có bao nhiêu người lãnh áo mão cân đai trở về. Hai câu thơ này thể hiện sự cam go của sĩ tử phấn đấu, thi thố tài năng qua trường thi trận bút hầu mong đỗ đạt để được tiến cử ra làm quan từ thời nhà Hán, cách đây hơn hai ngàn năm về trước. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, thời đại nào vẫn có vấn đề “Học tài thi phận”. Thế nên, mặc dầu vào thời nhà Hán một số người Việt khoa bảng như Lý Tiến, Lý Cầm, Trương Trọng đã đỗ đạt, vinh quy bái tổ và được Hán triều bổ nhiệm ra làm quan, mãi đến đầu thế kỷ thứ 20, Tú Xương than thở vì thi mãi vẫn chưa hết phạm trường quy:
“Đau quá đòn hằn
Rát hơn lửa bỏng
Hổ bút hổ nghiên
Hổ lều hổ chõng”
Thi hỏng liên tiếp, Tú Xương quả đã thất vọng.
“Phen này tớ hỏng tớ đi ngay
Cúng giỗ từ đây nhớ tới ngày
Học đã sôi cơm nhưng chửa chín
Thi không ngậm ớt thế mà cay!”
Cụ Nguyễn Công Trứ cũng đã trải qua những âu lo khắc khoải của cuộc đời khoa
hoạn, mãi đến tứ tuần mới đỗ Cử Nhân và được đề cử ra làm quan. Đối với Nguyễn
Tiên sinh đỗ đạt ví như: “Bẻ cành đơn quế cho rồi liền tay” chẳng những
để khỏi: “Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ. Nay thét mai gầm rát cổ cha” mà
còn đạt đến ước nguyện (self actualization) của cuộc đời. Đắc chí, hay
đạt được lý tưởng vì được liệt vào hàng “Kẻ sĩ”.
Theo triết gia Maslow, nhân thế có 5 nhu cầu chính yếu (1) Nhu cầu về sinh vật lý (physiological needs) như đói ăn, khát uống…(2) nhu cầu được sống an toàn (security needs) không bị đe doạ, áp bức, kỳ thị ; (3) nhu cầu hội nhập (belonging needs), nhu cầu kết hợp, nhóm họp, thân hữu (4) nhu cầu được tôn trọng (respect needs) và (5) nhu cầu thực hiện được lý tưởng của mình (self actualization needs).
“Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt
Dân hữu tứ sĩ vi chi tiên
Có giang sơn thì sĩ đã có tên
Từ Chu, Hán vốn sĩ này là quí”.
Với danh tước Nho Sĩ, thì tiến vi quan thối vi sư. Trước hết, phải tích
cực tiến theo tấc bóng của mặt trời, “Nhật tân chi vị thịnh đức” mỗi
ngày một mới và mỗi ngày một thêm mới mới là đức thịnh. Đem lời hay ý đẹp phụng
sự xã hội lúc chưa gặp thời:
“Lúc vị ngộ hối tàng nơi bồng tất
Hiêu hiêu nhiên điếu Vị canh Sằng
Xe bồ luân dầu chưa gặp Thang, Văn
Phù thế giáo một vài câu thanh nghị”.
Và khi gặp thời thì:
“Rồng mây khi gặp hội ưa duyên
Đem tất cả sở tồn làm sở dụng
Trong lăng miếu ra tài lương đống
Ngoài biên thùy rạch mũi can tương
Làm cho bách thế lưu phương
Trước là Sĩ sau là Khanh, Tướng.”
Sau khi đem tài kinh bang tế thế để giúp nước trị dân, kẻ sĩ mới được thung
dung thụ hưởng cảnh an nhàn:
“Nhà nước yên sĩ mới được thung dung
Bấy giờ sĩ mới tìm ông Hoàng Thạch
Năm ba chú tiểu đồng lếch thếch
Tiêu dao nơi hàn cốc thanh sơn
Nào thơ nào rượu nào địch nào đờn
Đồ thích chí chất đầy một túi
Mặc ai hỏi mặc ai không hỏi đến
Ngẫm việc đời mà ngắm kẻ trọc thân
Này này sĩ mới hoàn danh.”
Tuy vậy, cũng có nhiều vị khoa bảng chỉ chuyên nghề dạy học và không màng danh
lợi như Cụ Chu Văn An, có thể vì:
“Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Mặt phong trần nắng rám mùi dâu.
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ, bèo đầu bến mê”!
Cũng có thể vì không muốn dấn thân vào vòng tục lụy xích xiềng để rồi phải ân hận:
“Về đi sao chẳng về đi,
Ruộng hoang vườn rộng còn chi không về
Đem thân để hình bia sai khiến,
Còn ngậm ngùi than vãn với ai.”
Vấn đề thi thố tài năng qua trường thi trận bút đã bắt đầu từ thế kỷ thứ 11,
đời nhà Lý. Vua Lý Nhân Tôn đã mở khoa thi đầu tiên vào năm 1075 để chọn Minh
Tinh Bác Học, ra giúp nước trị dân. Năm 1195 lại mở khoa thi Tam Giáo, khảo sát
kiến thức về triết học Nho Giáo, Phật Giáo và Lão Giáo. Qua đời nhà Trần, chế
độ thi cử được cải tiến quy củ hơn. Vua Trần Thái Tôn mở khoa thi Thái Học Sinh
năm 1232. Năm 1247, nhà Trần đặt ra Tam Khôi: Trạng Nguyên, Bảng Nhãn và Thám
Hoa.
Các khoa thi, cứ 7 năm thi một kỳ. Đến đời nhà Hồ đổi thành 3 năm, nhưng mãi
đến đời vua Lê Thánh Tôn (1463) lệ thi 3 năm một lần mới được thông dụng. Các
kỳ thi để tuyển dụng nhân tài được tổ chức cho đến thời mạt diệp nhà Nguyễn với
kỳ thi Hương cuối cùng năm Mậu Ngọ 1918.
Về nội dung các khoa thi, tuy có gia giảm tùy thời đại, nhưng đại để các khoa
thi chia thành 4 phần chính:
– Trường Nhất: Thi Kinh – Nghĩa: Luận về ý nghĩa của kinh truyện, còn gọi là
tinh nghĩa, hiểu rõ ý nghĩa của triết lý thánh hiền.
– Trường Nhì: Thi thơ, phú theo quy luật và đề tài do ban giám khảo định.
– Trường Ba: Thi Chiếu, Chế, Biểu: Soạn thảo các loại công văn dùng trong triều
đình. Chiếu là lệnh của Vua, như sắc lệnh của Quốc Trưởng. Chế là lệnh ân
thưởng, phạt cho quân thần và Biểu là Sớ dâng lên nhà Vua để tán tụng hoặc xin
thỉnh nguyện, một hình thức kiến nghị.
– Trường Tư: Thi Văn sách: Thi Văn sách nhằm trắc nghiệm óc suy luận và kiến
thức về một đề án.
Đã gọi là học tài thi phận, sĩ tử ngoài việc thuộc làu kinh sử, còn phải có
biệt tài suy luận, văn hay và chữ thật đẹp mới có nhiều hy vọng trúng tuyển.
Nếu không có biệt tài, thì dù có thi cả chục lần, cũng chưa chắc đạt được bảng
vàng, bia đá. Cụ Nguyễn Khuyến đã đỗ đầu 3 kỳ thi Hương, thi Hội và thi Đình
được lừng danh là Tam Nguyên Yên Đỗ, thật là một nhân tài. Đọc lại một số bài
Kinh Nghĩa, Thơ, Phú, Văn sách còn truyền lại với cách hành văn và ý nghĩa thật
khúc triết mới thấy, dù là từ chương trích cú, chế độ thi cử thật là khó khăn,
đúng là: “Thi không ăn ớt thế mà cay.”
Tú xương đã thể hiện được tâm trạng của người thi hỏng:
“Một đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó đỗ khoa nầy có sướng không?
Trên ghế bà đầm nhoi đít vịt
Dưới sân ông cử ngổng đầu rồng”.
Định Chế Giáo Dục
Về định chế giáo dục, Việt Nam đã thành lập Đại Học, từ thế kỷ thứ 11. Văn Miếu đã được lập từ năm 1070 để thờ Đức Khổng Tử và làm cơ sở diễn giảng triết lý thánh hiền. Vua Lý Nhân Tông lập Quốc Tử Giám năm 1076. Vào đời nhà Trần, Quốc Học Viện được thành lập để diễn giảng Tứ Thư và Ngũ Kinh. Các định chế giáo dục này, tồn tại cho đến thế kỷ thứ 20.
Ngày nay trong thành nội Huế, Quốc Tử Giám vẫn là nơi trang nghiêm biểu tương
cho nền quốc học. Đến năm 1917, các định chế mới về giáo dục do Dụ Cải Cách
Học Chánh năm 1908 và năm 1917 ra đời thay đổi cả phần danh xưng lẫn nội
dung các môn học. Kỳ thi Mậu Ngọ năm 1918 là kỳ thi cuối cùng của chế độ thi cử
theo Hán học.
Viện Đại Học Đông Dương được thiết lập năm 1906 tại Hà Nội, sau đó vì sinh viên
bãi khoá nên bị đóng cửa đến năm 1917 mới được mở lại và đổi danh thành Đại học
Hà Nội. Viện Đại học Hà Nội có chi nhánh tại Sài gòn. Năm 1955 được đổi thành
Viện Đại học Quốc Gia Việt Nam và đến năm 1957 đổi thành Viện Đại học Sàigòn.
Ngoài các đại học chuyên khoa về các ngành nhân văn và khoa học, chính quyền
còn lập thêm trường chuyên nghiệp về ngành quản trị công quyền như trường Hậu
Bổ lập năm 1903 tại Hà nội và tại Huế năm 1911. Đến năm 1912, trường Hậu Bổ
được đổi thành Trường Sĩ Hoạn (École des Mandarins) và đến năm 1917 được
đổi thành Trường Pháp Chính (École de Droit et d’Administration) hay
Trường Luật và Hành chính (School of Law and Administration) để đào tạo
các viên chức cai trị cho chính quyền trung ương và địa phương, các cấp Tri
Huyện, Tri Phủ, Tổng Đốc, Thượng Thư… cho Triều Đình Huế. Hậu thân của trường
uyên bác nầy là Học Viện Quốc Gia Hành Chánh được tái lập năm 1952 và sau đó
được sự bảo trợ của Đại học Michigan State University của Hoa Kỳ với chương
trình huấn luyện về quản trị tân tiến cho đến 1975.
Một số Đại học công khác cũng được thành lập vào thời kỳ Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng
Hòa như Viện Đại Học Huế được thành lập năm 1957, Đại Học Cần Thơ (1966), Viện
Đại học Bách Khoa Thủ Đức (1974) và các Đại học Cộng Đồng (Community
Colleges) như Đại học Tiền Giang – Mỹ Tho (1971), Đại học Duyên Hải-Nha
Trang (1974), Đại học Đà Nẵng (1974).
Các đại học tư được thành lập như Đại học Đà Lạt (1957), Đại học Vạn Hạnh
(1964), Đại học Phương Nam (1967), Đại học An Giang (1970) Đại học Cao Đài-Tây
Ninh (1972), Đại học Regina Pacis (1973).
Vào cuối thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ 20, một số cơ sở giáo dục được thành lập:
Tại Sàigòn, như trường Taberd lập năm 1890, trường Gia Long năm 1915, trường Petrus Ký năm 1928. Tại Huế, trường Quốc Học Huế năm 1896, trường Pellerin năm 1904, Đồng khánh năm 1917. Tại Hà nội, Trường Puginier năm 1897 và Trường Bảo Hộ năm 1908. Sau 1945, trường Bảo Hộ được đổi thành Trường Chu Văn An (Trường Bưởi). Trường Đồng Khánh Hà Nội mở năm 1917, sau đổi thành Trường Trưng Vương……là những trường nổi tiếng trong thời Pháp thuộc và Đệ Nhất, Đệ Nhị Cộng Hòa trước năm 1975.
Việt Nam đã chú trọng đến nền giáo dục quốc gia từ năm 1070 là một đặc nét của
nền văn minh Việt Nam. Từ ngàn xưa, ý nghĩa của danh từ đại học dành cho
sinh đồ được minh định trong sách Đại học, một trong 9 cuốn sách giáo
khoa của nền cổ học Trung Hoa, gồm Tứ Thư: Đại học, Trung Dung, Luận
Ngữ, Mạnh Tử và Ngũ kinh: Kinh Thi, Kinh thư, Kinh Lễ, Kinh Dịch, Kinh
Xuân Thu hợp lại thành chín bộ sách giáo khoa của Nho học làm nền tảng cho nền
giáo dục Việt Nam gần một ngàn năm lịch sử qua các triều đại cho đến khoa thi
Hương cuối cùng năm Mậu Ngọ 1918.
Triết lý giáo dục Nho học chú trọng đến luân thường đạo lý, biến hoá tùy thời,
thực tiễn từ cách vật trí tri, thành ý, chánh tâm đến tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ… Giáo dục ngành đại học cốt để
(1) Làm sáng cái đức tính của mình;
(2) Để cải tiến dân sinh, giúp dân bỏ cái xấu, theo cái tốt và
(3) An trụ ở nơi chí thiện.” Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân dân,
tại chi ư chí thiện”.
Ba cương lĩnh nầy được cụ thể hóa bằng sách lược đào luyện qua tám phương cách để giúp con người trở thành đại trượng phu, mẫu người quân tử theo quan niệm của Nho học:
(1) Cách vật: tiếp cận và tìm hiểu sự vật.
(2) Trí tri: đạt sự hiểu biết thấu đáo.
(3) Thành ý: làm cho ý của mình được thành thực.
(4) Chánh tâm: làm cho tâm được trung chính.
(5) Tu thân: tu sửa chính mình.
(6) Tề gia: xếp đặt mọi sự cho gia đạo hài hoà.
(7) Trị quốc: khiến cho nước được an trị.
(8) Bình Thiên hạ: khiến cho thiên hạ được thái bình.
Tại Mỹ, mãi đến thế kỷ thứ 17 mới thành lập Đại Học. Đại Học Harvard được lập
vào năm 1638. Viện Trưởng Increase Matter, không được Đại Học Anh cấp bằng Tiến
Sĩ. Hội đồng khoa Đại Học Harvard quyết định cấp bằng Tiến Sĩ cho ông Matter để
ông có đủ thẩm quyền cấp bằng cho ban giảng huấn và sinh viên tốt nghiệp. Hơn
300 năm sau Đại Học Harvard mới được công nhận vào quy chế Đại Học chung do Khu
giáo dục công nhận (Accredition) vào năm 1949.
Nền giáo dục ở Mỹ, mỗi Đại Học có quy chế riêng và tự trị, mặc dù đa số các Đại
Học phải theo các tiêu chuẩn về tài chánh, giảng huấn, cơ sở và học liệu do 1
trong 6 khu định chuẩn công nhận. Các Hội đồng này do tư nhân thành lập và quản
trị. Một số đại học do Tiểu bang cấp giấy phép và không màng liên hệ đến các
Hội đồng này. Hiện nay có trên 2000 Đại Học tại Mỹ, là một quốc gia cung cấp
nhiều khoa bảng nhất thế giới. Theo tài liệu của US Department of Labor thì chỉ
trong niên khóa 1985-86:
– 1,300,000 SV được cấp bằng cử nhân (BA, BS…)
– 288,000 SV được cấp bằng Cao Học (MA, MS…)
– 32,000 SV được cấp bằng Tiến Sĩ (Ph.D, Ed…)
chưa kể đến các văn bằng Trung cấp như Associate Degrees (AA,AS..) cán sự học 2
năm hoặc các chứng chỉ (Certificate học dưới 2 năm như chứng chỉ về thương mại,
kế toán, khả năng luât, kỹ thuật v.v…). Số sinh viên tốt nghiệp hằng năm tính
đến 2018 thay đổi theo dân số và các ngành học cũng gia tăng theo nhu cầu phát
triển về nhân văn và khoa học.
Danh từ BA (Bachelor of Art) được hiểu như là một “Bồ chữ” (A batch of
Knowledge) như Cao Bá Quát cho rằng trong nhân gian có 4 “Bồ chữ”,
ông ta và gia đình chiếm hết 3 bồ, còn lại một bồ cho thiên hạ!
Ngày trước, danh từ Bachelor chỉ dùng cho nam giới, còn nữ giới không được dùng
vì không “xứng đáng”! Đàn bà đỗ Cử Nhân chỉ được gọi là Mistress of
Art hoặc Maid of Science. Dù bị kỳ thị nhưng vẫn còn khá hơn ở Trung Hoa và
Việt Nam. Theo quan niệm cổ thì nữ giới “chỉ lo việc trong nhà, khi vào
canh cửi khi ra thêu thùa. Trai thì đọc sách ngâm thơ, dùi mài kinh sử để
chờ kịp khoa, mai sau nối được nghiệp nhà, “trước là tỏ mặt sau là ấm
thân”. Mạnh Lệ Quân phải giả trai mới được dự thi và được bổ nhiệm ra làm
quan.
Ngày trước đỗ Cử Nhân (BA, BS…) là thành công trên đường học vấn và thành
danh được liệt vào hàng “kẻ sĩ”. Sĩ rồi mới đến Nông, Công, Thương và được tiến
cử vào hàng Công Hầu Khanh Tướng. Ngày nay, với cấp bằng Cử Nhân cũng đủ sống
với đời về cả “Danh” cũng như “Phận”.
Có thể nói rằng hấp thụ kiến thức cần thiết là trình độ học vấn ở bậc Cử Nhân.
Nghiên cứu thêm để tinh luyện suy luận ở bậc Cao Học và phát triển sáng tạo ở
bậc Tiến Sĩ. Cao học thường nghiên cứu lại các môn đã học ở bậc Cử Nhân, tùy
ngành, và nghiên cứu thêm về thực trạng của một vấn đề. Tiến Sĩ cũng thường
thâm cứu lại những môn đã học, thêm phần suy diễn, đặt giả thuyết (hypotheses)
và tìm cách chứng minh bằng thực nghiệm (test) hoặc áp dụng kiến thức nghiên
cứu sự liên hệ nhân quả giữa các hiện tương chính trị, kinh tế, xã hội, văn
hoá….
Tại Việt Nam trước năm 1975, các văn bằng đại học thường được cấp chuyên ngành
học từ cấp cử nhân, cao học đến tiến sĩ phỏng theo hệ thống giáo dục từ thời
Pháp thuộc. Tại Mỹ đa số ngành chuyên môn cũng vậy. Tuy nhiên ở VN các ngành
như Luật khoa, Y khoa thì sinh viên có bằng Tú Tài II có thể ghi danh theo học,
nhưng tại Mỹ, các trường luật, y khoa chỉ nhận các sinh viên đã có văn bằng cử
nhân trở lên mới được xin nhập học… Sinh viên tốt nghiệp bậc Cử nhân các
ngành kỹ thuật, khoa học, kinh tế, nhân văn,… đều có thể nạp đơn xin vào ban
Cao học Kinh doanh, Tiến sĩ luật khoa, Tiến sĩ y khoa… sau khi trải qua một
kỳ thi Admission Test, với số điểm cao, thường trên 500, và cũng tùy
trường và các điều kiện khác mới được cứu xét….
Chung quy mục đích của giáo dục là phát triển kiến thức, tinh luyện suy luận và
phát triển sáng tạo. Về phương diện luân lý, giáo dục nhằm đào tạo con người
trở nên cao thượng hơn vì giáo dục mà thiếu lương tâm chỉ làm thêm bại hoại tâm
hồn “Science sans conscience n’est que ruine de l’âme”. Cụ Nguyễn Công
Trứ đã nêu rõ sứ mệnh của Kẻ Sĩ: “Trong lăng miếu ra tài lương đống, ngoài
biên thùy rạch mũi Can tương” để phụng sự quốc gia dân tộc.
Sự thành công ở đời, phần thì do khoa bảng, phần khác do kinh nghiệm. Học và
Hành đều nhằm mục đích tinh luyện kỹ năng (skill). Thế thì, nếu thành
công trong một ngành chuyên môn nào đó, do kinh nghiệm hoặc do các phương thức
khác, sự thành công này không thua gì khoa bảng. “Nghề nào cũng trọng cũng
hay. Đi buôn cũng quý, đi cày cũng sang”. Trong một số trường hợp, dù có
bằng cấp vẫn bị sa thải sau thời gian thử thách (probation), nghĩa là “Không
cần biết anh, chị có bằng cấp gì nhưng chúng tôi cần biết anh chị có làm được
việc hay không”.
Tại các nước tân tiến, ngoài ngành văn, ngành võ cũng được phát triển. Trường
West Point của Hoa Kỳ huấn luyện sinh viên cả văn lẫn võ. Sau khi xuất ngũ, cựu
sinh viên West Point thường được trọng dụng trong các ngành kinh doanh, kỹ
thuật và các sĩ quan cấp tướng phải có bằng Cao học.
Tại Việt Nam, tuy khoa bảng thường nói đến văn tài, nhưng võ lược dưới thời
quân chủ cũng có văn bằng Võ Cử Nhân. Các quân trường sĩ quan huấn luyện quân
sự 1 hoặc 2 năm của QVNCH, tương đương với bằng Trung Cấp (AA hay Associate
Degree in Military Sciences) hay 4 năm tương đương với Cử Nhân Khoa Quân Sự.
Tại Việt Nam trong thời quân chủ có Võ Cử Nhân và tại Trung hoa, ngoài Cử Nhân
Võ, còn có Võ Trạng Nguyên.
Không phải khoa bảng nào cũng thành công, ngoài kiến thức, kinh nghiệm thu nhận
được, mỗi người còn có biệt tài thiên phú, hoặc do khả năng tự đào luyện thành
người hữu dụng. Khi quân Minh xâm lăng Việt Nam, vua quan trốn chạy, Lê Lợi
người dân áo vải đất Lam Sơn đã dựng cờ khởi nghĩa, quy tụ quần hùng, 10 năm
(1418-1428) nếm mật năm gai, đã cứu giang sơn ra khỏi nơi đắm đuối, lập nên
triều đại Hậu Lê.
Bên phương trời Tây có triết gia Socrate, được mệnh danh là sư tổ của nền triết
học Tây phương. Ông nổi tiếng là người giỏi nhất vì đi đâu ông cũng nói “Điều
tôi biết rõ là tôi không biết gì cả – As for me, all I know is that I know
nothing”. Thế là ông được mọi người đua nhau giải thích cho ông những gì họ
biết. Học như vậy, khỏi mất tiền mà được nhiều người thương là hiếu học!
Trái lại, triết gia Khổng Tử ở phương trời Đông nổi tiếng vì đã chu du lục quốc
để thuyết minh về đạo lý làm người, tu, tề, trị, bình. Đức Khổng Tử (551-479
BC) và Socrate (470-399 BC) có điểm tương đồng là chủ trương “cái gì biết
thì cho là biết, cái gì không biết thì nói là không biết”, chú trọng vào
vấn đề công lý, đạo đức, nhân cách làm người… và cũng gần có chung một quan
niệm “Thuận Trời thì sống, chống Trời thì chết”!.
Trong lúc Socrate chủ trương muốn sống xứng đáng phải biết luôn tự xét mình vì “The
unexamined life is not worth living for a human being” và “I do not
fancy that I know what I do not know”. Thì Đức Khổng Tử khuyên nhân thế. “Từ
thiên tử dĩ chí ư thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản”. Từ vua cho đến
thứ dân, ai ai cũng lấy sự sửa mình làm gốc. Đúng là thượng trí gặp nhau. “Les
grands esprits se rencontrent- Great minds think alike”.
Ảnh hưởng của hai nhà hiền triết nầy thật sâu rộng nhất là về thái độ làm
người. Người Tây phương nghe nhiều hơn nói và thích nghe để học hỏi. Người Đông
phương thích làm thầy, nói nhiều hơn nghe!? Trường đời là Đại Học hữu hiệu nhất
tôi luyện con người làm nên sự nghiệp. Hiện nay, có trên 300 ngành học khác
nhau và xã hội tân tiến như Hoa Kỳ có trên 2000 nghề chuyên môn.
Người Mỹ quan niệm “thầy” của ngành nầy là ”học trò” của ngành khác, nên khi
gặp vấn đề không thuộc ngành chuyên môn của mình, thường trả lời “I don’t
know”. Phần khác vì tinh thần trách nhiệm, người Mỹ không “advise” người
khác về những vấn nạn không thuộc ngành chuyên môn của mình. Còn người Việt, ít
khi nghe nói “I don’t know”. Nhân viên các cấp, các ngành trong công ty, công
sở đều phải học hỏi trong thời gian làm việc để thăng tiến nghề nghiệp, để đủ
điều kiện hành nghề theo luật định, nên vấn đề tu nghiệp rất quan trọng để cập
nhật kiến thức.
Thường các bậc phụ huynh khuyên con cháu lo học hành vì hiểu rõ tầm mức quan
trọng của sự học trong đời sống. “Nhân bất học, bất tri lý. Ấu bất học lão
hà vi ”. Ngày trước ở Việt Nam đỗ Tú Tài như Tú Xương không có cơ hội thăng
tiến. Ngày nay tại các quốc gia tân tiến mà chúng ta đang cư ngụ, mọi ngành
hoạt động đều cần chuyên viên có kỹ năng tinh luyện, được chứng minh bằng kiến
thức và kinh nghiệm. Nếu không có nghề chuyên môn, cạnh tranh với đời thật là
vất vả. Thôi thì “văn chương phú lục chẳng hay, trở về làng cũ học cày cho
xong”!
Đa số những người có kiến thức và kinh nghiệm ở Việt Nam, sau ngày di tản, tuổi
tác đã chồng chất, lại phải lo gánh nặng gia đình, còn đâu thì giờ để theo lũ
em học hành như xưa. Vì vậy, các bậc tiền bối chỉ trông nhờ vào lớp hậu sinh,
con cháu chuyên tâm nghiên bút, chẳng những để thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, vinh
thân, phì gia, mà còn làm: “Nở nang mày mặt, rỡ ràng mẹ cha. Trên vì nước,
dưới vì nhà. Một là đắc hiếu, hai là đắc trung.”
Hiếu thảo với mẹ cha, đem tài năng phục vụ nhân quần xã hội là niềm mong ước
chung của các bậc phụ huynh vậy.
Trần Xuân Thời