Trần Trọng Vũ
Minh Tran Hop: Ông Nguyễn Mạnh Tường (1909 – 1997) là luật sư nổi tiếng, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam. Năm 23 tuổi (1932) ông đỗ liên tiếp hai bằng Tiến sĩ tại Pháp. Năm 1954, ông về Hà Nội, được cử làm Giám đốc Đại học Luật, Phó Giám đốc Đại học Sư Phạm, và được bầu làm Chủ tịch Hội đồng Luật sư Hà Nội. Sau vụ Nhân văn Giai phẩm, ông chỉ làm nghiên cứu văn học nước ngoài.
– Hoạ sĩ Trần Trọng Vũ (1964), tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Việt Nam (1982–1987), École des Beaux-Arts, Paris (1989–1992). Trần Trọng Vũ là con trai út của cố nhà văn Trần Dần (1926-1997), được đánh giá là một trong những họa sỹ đương đại tài năng ở Châu Âu, được trao giải Pollock-Krasner 2011-2012, New York (Mỹ). Hiện đang sinh sống, làm việc tại Paris.
*
Hà Nội những năm 1980 thuộc về một thành phố đã không còn nữa. Hà Nội thuở ấy vắng người qua lại, xe đạp thưa thớt, xe máy chỉ đếm trên đầu một số ngón tay. Cảnh nghẽn đường còn hiếm hơn phim Mỹ ngoài rạp. Mọi ngã tư đều không được trang bị đèn xanh đèn đỏ, đèn vàng. Hà Nội ấy trong tôi là một thành phố nhiều uẩn khúc, với những tên người còn ở lại trong ký ức và giai thoại. Mỗi khi trở về Việt Nam và đối diện với một Hà Nội ồn ào khói bụi tôi không khỏi chạnh lòng mà nghĩ về một thành phố xa vời, với những con người đã đi qua và đi theo cuộc đời tôi. Họ, với Hà Nội, có thể nào chỉ là một? Để làm nên những bản hòa tấu không dứt của huyền thoại.
LỚP TIẾNG PHÁP
Một ngày năm 1982, khi tôi chuẩn bị vào học đại học Mỹ Thuật, bố tôi bảo: “Làm họa sĩ, mày phải học tiếng Pháp”. Tôi không mừng rỡ, cũng không băn khoăn gì nhiều với quyết định này. Tiếng Pháp và nước Pháp lúc bấy giờ là hai khái niệm vô cùng xa rời. Giống như có thể và không thể, như hiện thực và hư cấu. Như viễn cảnh và viễn tưởng. Nhiều năm trước, anh trai tôi, và hầu như tất cả con cái của những bạn bè nghệ sĩ của bố tôi, đều đã theo học tiếng Pháp, đều ở nhà luật sư và giáo sư Nguyễn Mạnh Tường. Tiếng Pháp với họ có lẽ chính là phần tiếp nối cho giấc mơ dang dở của các bậc cha mẹ. Giấc mơ ấy, đứt đoạn ngay từ trường phổ thông, bởi vì ở trường phổ thông tiếng Nga đã ồ ạt chiếm chỗ của mọi ngoại ngữ khác và đã trở thành môn học bắt buộc cho bất cứ ai. Anh trai tôi tiếng Nga chưa thạo bao giờ, sau vài năm tiếng Pháp đã đủ sức dịch lại các bài hát Pháp, khiến tôi khâm phục không ít.
Vậy là vào một buổi sáng khi tôi 18 tuổi, một người bạn của bố tôi đã đưa tôi đến gặp giáo sư Nguyễn Mạnh Tường. Ông tiếp chúng tôi trong phòng khách ở tầng trệt, cũng là nơi ông dạy học. Phòng khách rất ít ánh sáng trời và hầu như lúc nào cũng phải thắp đèn điện, khi không có điện thì thắp đèn dầu. Ông hỏi tôi: “Bố cháu sức khỏe thế nào?”. Tôi hiểu rằng bố tôi và ông đã không gặp nhau từ lâu: bố tôi mang bệnh nhiều năm rồi, đi lại rất khó khăn. Ông cũng nói: “Cháu học tiếng Pháp, bác không lấy tiền học của cháu”, như một điều kiện ngoại lệ. Hôm ấy, tôi không thể không kinh ngạc trước một nhân vật đã 73 tuổi mà nhanh nhẹn, khỏe mạnh, giản dị và cực kỳ minh mẫn.
Những buổi học sau đó diễn ra vào các buổi chiều muộn. Mỗi tuần một lần, cứ sau giờ học ở trường Mỹ Thuật tôi lại lững thững đạp xe đến phố Tăng Bạt Hổ. Buổi học đầu tiên, chúng tôi trên dưới 10 học trò, ngồi vòng tròn quanh chiếc bàn lớn, cùng chép lại chiếc bảng đen đầy chữ viết li ti và cẩn thận, bằng phấn trắng. Chúng tôi không có giáo trình, không bao giờ theo giáo trình. Buổi học đầu tiên chúng tôi không học nói “Chào anh, chào chị”, “Anh có khỏe không? Anh từ đâu đến? Tên anh là gì?”. Mà trực tiếp tấn công vào động từ LÀ, cùng nhiều ngữ cảnh của nó, để LÀ trở nên KHÔNG LÀ, và dĩ nhiên với không ít ngỡ ngàng.
Vậy là, sau buổi học đầu tiên, khám phá quan trọng với tôi lại chính là tiếng Việt. Bởi vì ở trường phổ thông chưa một lần các giáo viên ngữ pháp dạy tôi rằng LÀ và CÓ là những động từ, như biết bao những ăn, ngủ, nói năng, hoạt động đi lại khác. Cũng trong buổi học đầu tiên ấy chúng tôi đã phải ghép lại những từ vựng tìm thấy trên bảng đen, để giải thích vì sao người Việt Nam lại xanh xao như thế, bé nhỏ như thế.
Những buổi học sau đó đều đều tiếp diễn, với số lượng học trò không ổn định, nhưng tôi cũng bắt đầu quen thân với một số ở trong lớp. Họ làm đủ ngành nghề, thuộc mọi lứa tuổi. Họ là những học trò trung thành và chăm chỉ nhất. Họ đến rồi đi, rồi quay lại. Các lớp học cũng vậy, khi thì chiều chủ nhật khi thì các thứ năm hoặc các thứ ba. Năm tháng trôi đi, có lẽ ông Nguyễn Mạnh Tường là người đã thấy chúng tôi lớn lên, già đi, trưởng thành hơn. Nhưng điều kỳ lạ hơn cả, là ông không hề thay đổi. Cứ chiều đến ông lại ra sân vận động chơi tennis, trước khi trở lại công việc. Khi chúng tôi đến lớp bao giờ trên bảng đen ông cũng đã viết sẵn rất cẩn thận những từ vựng cùng mẫu câu mới. Bao giờ ông cũng vào lớp đúng giờ và thường xuyên con mèo lông xám, nhiều tuổi và ít lời, lại đến nằm gọn trong lòng ông, cũng rất đúng giờ.
Đám học trò của ông có thể chia thành hai nhóm. Một là dân tiếng Pháp chuyên nghiệp, đã hoặc đang theo học các trường ngoại ngữ, hoặc đang đi làm cho các báo tiếng Pháp, hoặc cho sứ quán Pháp ở Hà Nội. Còn một nữa, là lũ nghiệp dư chúng tôi. Trình độ như vậy rất chênh lệch, nhưng tất cả đều có thể thu về cho mình những gì cần thiết và phù hợp. Chúng tôi học tiếng Pháp, nhưng không chỉ một mình tiếng Pháp. Mỗi khi học thêm một từ vựng chúng tôi cũng làm quen với nguồn gốc của nó, với tiếng La-tinh, và các họ hàng của nó trong tiếng Hy-lạp, rồi tiếng Ý. Mỗi buổi học chúng tôi cũng được nghe giảng xung quanh những chủ đề khác nhau, về lịch sử, về văn hóa, và nghệ thuật. Nhiều chủ đề được kéo dài hàng tuần lễ. Ông giảng cho chúng tôi về nền văn minh Địa Trung Hải, về những cuộc đại chiến, về quân đồng minh, về sự ra đời của L’ONU… Ông cũng đưa chúng tôi trở lại thực trạng Việt Nam, để cùng chuyện trò về lịch sử, về xã hội, về con người đương thời và đạo đức của họ, về những sự kiện thời sự buồn tẻ chứ không nhiều hổ lốn như bây giờ. Tất cả học trò của ông có lẽ sẽ không quên được những bài giảng về cuộc Cách mạng Pháp, về lời tuyên thệ quyền con người và quyền công dân đã có ở bên Pháp từ thế kỷ 18. Những từ vựng ấy người đương thời chỉ có thể thì thào với nhau nơi vắng người. Những kiến thức ấy không thể lấy được từ nền giáo dục chính thống lúc bấy giờ.
Sau những buổi học như vậy, nhiệm vụ của chúng tôi là viết lại những gì đã thu nhận được trên lớp, để ở buổi học tiếp theo ông sẽ đọc và sửa lỗi chính tả, và dĩ nhiên không chỉ lỗi chính tả.
CON NGƯỜI VÀ HAI VÔ CỰC
Những năm cuối đại học Mỹ Thuật tôi và nhiều bạn bè không ít lần loay hoay trong những câu hỏi vô nghĩa mà lại ý nghĩa. Chúng tôi là cái gì? Làm nghệ thuật để làm gì? Cuộc sống khốn khó khiến những họa sĩ tương lai hoài nghi ngay cả bản thân, cùng con đường mà họ sẽ bắt đầu.
Tôi tiếp tục đến lớp tiếng Pháp. Mỗi tuần lại một lần, khi buổi chiều chuẩn bị kết thúc, tôi lại đạp xe chầm chậm qua nhiều phố vắng. Rồi men theo hồ Ha-le, rồi lại vào nhiều phố vắng. Trong đầu vương vấn những câu tiếng Pháp chưa thuộc. Tôi đi học ngoại ngữ.
Khi tan lớp học, thành phố đã lên đèn nếu như không bị cắt điện. Tôi lại đạp xe men theo bóng tối của Hà Nội. Tôi quay về những phố vắng. Trong đầu lại vương vấn một số từ vựng mới chưa quen. Tôi về nhà. Tuần lễ nào cũng một lần với một mớ tiếng Pháp. Nhưng nước Pháp vẫn xa vời, chưa bao giờ tôi nghĩ tới.
Cũng chính trong thời gian ấy, ông Nguyễn Mạnh Tường đã gần 80 tuổi, ông đề nghị lớp học làm việc về Blaise Pascal, một tác giả Pháp của thế kỷ 17. Ông là nhà toán học, vật lý học, nhà phát minh, ông cũng là triết gia, còn rất xa lạ với người Việt Nam. Chúng tôi bắt đầu bằng tiểu sử của ông, cùng một tai nạn kỳ lạ trên cầu Neuilly đã khiến ông cống hiến toàn bộ những công việc cuối cho triết học và tôn giáo. Những giờ học đặc biết ấy thực sự cuốn hút, nhất là khi ông Nguyễn Mạnh Tường đọc và giải thích cho cả lớp nghe nhiều trích đoạn từ cuốn “Pensées”. Tôi rất muốn ghi lại một số ở đây, bởi vì những năm sau đó tôi còn sử dụng lại chúng để lý giải nhiều sự việc quanh mình.
Đấy là khi Pascal viết rằng con người, là một loài lau sậy yếu đuối nhất trong thiên nhiên, nhưng loài lau sậy ấy biết suy nghĩ. Và rồi, cái vĩ đại của con người thực sự vĩ đại ở chỗ anh ta tự biết mình khốn cùng. Trái lại, cây cỏ không tự biết nó thế nào sẽ phải vĩnh viễn khốn cùng.
Ở một chỗ khác, Pascal cũng viết rằng con người ấy, thực sự bé nhỏ, đến mức hoàn toàn có thể biến mất trong vương quốc nơi anh sống. Vương quốc cũng vô cùng bé nhỏ trên trái đất. Trái đất cũng vậy, một dấu chấm khiêm nhường trong vũ trụ. Đấy là những gì có thể được nhìn thấy. Nhưng khi ở bên ngoài mọi khả năng thị giác, vũ trụ vẫn còn tiếp tục mở rộng, bởi trí tưởng tượng. Chỗ nào cũng có thể là tâm điểm, mà chẳng có nổi ở đâu một chu vi của vũ trụ. Con người vì vậy nhỏ bé lắm, đến mức chẳng là cái gì cả, trong vô tận.
Nhưng con người ấy cũng vô cùng khổng lồ, bởi vì trong mỗi thân thể có muôn vàn những bộ phận tí xíu, trong mỗi bộ phận có những mạch máu, trong mạch máu có máu, trong máu có những giọt máu, trong giọt máu có hơi nước, rồi tất cả còn tiếp tục được phân chia thành những phần nhỏ nữa, rồi vô cùng nhỏ, đến khi trí tưởng tượng mệt nhoài, đến vô tận. Con người vì vậy cũng là tất cả, đối diện với cái không là gì cả.
Vị trí của con người do đó phải nằm giữa hai vô cực, giữa cái vô cùng lớn và cái vô cùng nhỏ, giữa Không và Có. Con người chỉ có thể là trung tâm của vũ trụ.
Tư tưởng của Pascal như vậy gặp lại nền văn minh Hy-lạp, và chủ nghĩa nhân văn của thời kỳ phục hưng ở châu Âu. Con người được đề cao, thông qua những vẻ đẹp hoàn toàn thị giác, của cơ thể, của khuôn mặt. Quan niệm này hoàn toàn xa lạ với chúng tôi, những học trò đến từ một nền giáo dục không đầy đủ. Thời bấy giờ chúng tôi chỉ được trang bị bởi trường học những định nghĩa không về nhân văn, mà về con người mới của xã hội mà chúng tôi đang sống. Con người trong xã hội Việt Nam thường xuyên đứng sau những ngôn từ như đạo đức, bổn phận, sự trung thành… Con người ở Việt Nam đã nhỏ bé sẽ phải mãi mãi nhỏ bé, đã vĩ đại sẽ muôn đời vĩ đại. Tôi chưa bao giờ được học trên ghế trường phổ thông, rằng con người vừa nhỏ bé đến mức sẵng sàng biến mất, vừa vĩ đại có thể so sánh với vũ trụ. Rằng cuộc sống cũng vừa ý nghĩa, vừa hư không.
Những bài tiếng Pháp ở lớp Nguyễn Mạnh Tường vô tình mà tiếp nối một cách hết sức tình cờ vào những băn khoăn của lũ nghệ sĩ nhiều lý sự của trường Mỹ Thuật. Vậy đấy, chúng tôi chẳng là cái gì cả, nhưng chúng tôi cũng là tất cả.
LỚP GIẢNG VĂN
Rất lâu sau này tôi hiểu thêm một điều, rằng Pascal là một phần quan trọng trong chương trình giảng dạy cho học sinh trường phổ thông Pháp. Những bài giảng này có thế đã đưa người thầy của chúng tôi về tuổi trẻ của ông. Những tư tưởng nhân văn mà ông đã cho chúng tôi có thể nhắc lại với ông phần nào cả một quá khứ nhân văn mà ông đã sống, mà vì nó ông đã mất đi tất cả: chức vụ, sự sùng ái của chính quyền, việc làm. Để về dạy tiếng Pháp tại gia.
Vào giờ cuối của chuyên đề Pascal, ông giữ chúng tôi lại và bảo: “Bác sẽ mở thêm một lớp giảng văn, chỉ dành cho văn học”. Từ lâu rồi ông không tổ chức thêm một lớp nào cả cho học sinh mới bắt đầu, có lẽ ông cảm thấy tuổi già và thời gian không cho phép nữa.
Vậy là tất cả chúng tôi chuyển sang lớp giảng văn. Lớp học vẫn trộn lẫn hai nhóm học trò: những dân tiếng Pháp chuyên nghiệp và lũ nghiệp dư viết giỏi hơn nói. Vẫn một tuần một buổi.
Toàn bộ năm học cuối của tôi được tập trung xung quanh văn học Pháp thời Trung cổ. Dĩ nhiên không chỉ có văn học, bởi vì không thể bỏ qua những bối cảnh lịch sử, không thể không tham khảo sự hình thành của tiếng Pháp, và nhất là phải được trang bị một phương pháp nào đấy khi bình giảng văn học.
Vậy là lớp tiếng Pháp trở thành lớp giảng văn. Tôi còn nhớ những bài học với “Chanson de Roland”, “Roman de la Rose”, “Roman de Renard”, cùng những “Tristan et Iseult” và những ngụ ngôn. Thời gian ấy tôi đã tốt nghiệp mỹ thuật và đã đi làm. Cũng có những lần tôi phải xa Hà Nội, hai tháng sau quay lại lớp giảng văn, mọi người thì thào với tôi: “Vẫn La housse partie” mà chúng tôi đã bắt đầu từ trước khi tôi vắng mặt. Đấy là một ngụ ngôn rất ngắn, chưa đầy một trang giấy, nhưng những gì được phát triển xung quanh nó lại kéo dài hàng tháng. Đấy cũng là một câu chuyện hài hước mà xúc động, và dĩ nhiên kết thúc bằng một thông điệp đạo đức, đúng như đặc điểm của văn học thời bấy giờ.
Những bình giảng văn học trong lớp tiếng Pháp cũng dĩ nhiên không thể chia sẻ gì được với môn trích giảng văn học mà chúng tôi đã có ở trường phổ thông. Mà theo tôi, khoảng cách lớn nhất của chúng là hai phương pháp bình giảng. Một làm việc trên cách thức diễn đạt của ngôn ngữ và đối chiếu những tình huống đặt ra trong câu chuyện với hoàn cảnh xã hội cùng lịch sử. Một đưa văn học vào bên dưới những tiêu chuẩn và ý tưởng cao đẹp, thường xuyên không liên quan gì đến văn học.
Lớp giảng văn, vì vậy cũng là nơi để người thầy của chúng tôi đối thoại với tuổi trẻ và ký ức của ông. Nhưng trên hết, để ông kể với chúng tôi rằng đã có một cách đối xử hoàn toàn khác, của người đọc với văn học, của người đương thời với văn hóa và cả với lịch sử nữa.
NƯỚC PHÁP
Năm ấy là 1989. Tôi nhận học bổng du học ở Pháp. Nếu như tôi thường xuyên vương vấn với tiếng Pháp, trong 7 năm dài, thì đây là lần đầu tiên tôi nghĩ tới nước Pháp. Nhưng chỉ vậy thôi bởi vì tôi vẫn cho rằng tất cả chỉ là viễn tưởng. Ngay cả khi tôi đã cầm hộ chiếu và vé máy bay trong tay.
Ông Nguyễn Mạnh Tường cũng tạm thời nghỉ dạy, bởi vì ông chuẩn bị một chuyến đi mang tính chất gia đình, cho nước Pháp, sau hơn nửa thế kỷ xa cách.
Ông bảo tôi: “Cháu cho bác ngày bay, để bác đặt vé đi cùng cháu. Bác không có ai đón ở sân bay cả”. Những ngày cuối thật bận rộn. Tôi hẹn ông ở sân bay Nội Bài.
Đến ngày khởi hành, chuyến đi của tôi bị dừng lại, vài giờ trước khi ra sân bay, bởi một cú điện thoại từ đâu đấy về ban giám hiệu trường mỹ thuật nơi tôi làm việc. Đúng như linh cảm của tôi về một nước Pháp viễn tưởng. Giống hệt. Nhưng tác hại kinh khủng của nó còn kinh khủng gấp bội lần cuộc du học thất bại của tôi ở một nước đông Âu, sáu năm trước, khi tôi cũng đã một lần nhận học bổng, sau khi đã học xong năm thứ nhất ở trường đại học mỹ thuật.
Rất nhiều phiền phức sau đó xảy đến với tôi, cùng những chạy vạy, những cuộc phỏng vấn nơi các cơ quan nhiều thẩm quyền, những hy vọng và thất vọng. Hai tháng sau, tôi nhận quyết định được phép du học lần thứ hai.
Nhưng để tới được nước Pháp tôi còn phải làm một vòng rộng lớn quanh Đông Âu bởi vì phòng vé hãng hàng không trả lời rằng trong vòng 12 tháng tới mọi chuyến bay đến vùng tư bản đều không còn chỗ. Vậy là sau 10 ngày lang thang không khách sạn trên những sân bay buồn ngủ và xa lạ, cuối cùng tôi cũng đến được nước Pháp.
Ông Nguyễn Mạnh Tường lúc ấy vẫn còn ở Paris. Ông kể với tôi rằng ông đã tìm tôi ở sân bay Nội Bài. Ông đã tìm tôi trong máy bay. Chỉ lúc máy bay cất cánh ông mới hiểu rằng một chuyện không hay đã xảy đến với tôi. Ông cũng kể rằng một người bạn tôi đã đến chờ tôi ở sân bay Roissy, đã không thấy tôi, nhưng đã nhận ra ông một mình với đống đồ đạc. Người bạn ấy của tôi đã đưa ông về Paris.
Năm năm sau, từ nước Pháp tôi quay trở lại Việt Nam. Tôi có đến thăm ông Nguyễn Mạnh Tường. Ông đã thực sự nghỉ dạy. Ông tiếp tôi, vẫn như buổi sáng nào của 12 năm về trước, khi tôi đến gặp ông lần đầu tiên, trong căn phòng khách này nơi ít ánh sáng trời. Đấy là lần cuối cùng tôi gặp ông.
Paris tháng 1 năm 2014
T.T.V