Bị cáo Trần Việt Thái đã dùng số tiền thu chênh của gần 1.900 người mãn hạn tù tham gia “chuyến bay giải cứu” để “bồi dưỡng” cán bộ, nhân viên và chia nhau.
Trong vụ án “chuyến bay giải cứu”, ông Trần Việt Thái, cựu Đại sứ Việt Nam tại Malaysia, cùng 3 thuộc cấp đã bị cáo buộc phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.
Ông Thái được bổ nhiệm làm Đại sứ tại Malaysia từ tháng 5/2020, nhưng đến tháng 11/2020 mới sang được và phải cách ly thêm 2 tuần mới trình được quốc thư lên vua Malaysia.
Ông Thái là người chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức các “chuyến bay giải cứu” đưa công dân Việt Nam ở Malaysia về nước khi dịch COVID-19.
Cáo trạng của Viện KSND tối cao xác định từ tháng 5/2020 đến tháng 1/2022, Đại sứ quán tại Malaysia tổ chức 8 “chuyến bay giải cứu” đưa 1.891 người chấp hành xong án phạt tù ở 19 trại chờ về nước.
Đại sứ quán tại Malaysia đã thu của mỗi người mãn hạn tù 20,3 triệu đồng. Người không có hộ chiếu phải nộp cho Đại sứ quán 25 triệu đồng.
Với những người ở đảo xa, cần mua vé máy bay về Thủ đô Kuala Lumpur thì phải nộp từ 30 đến 35 triệu đồng/người. Trong đó, riêng khoản cấp hộ chiếu, một số bị cáo ở Đại sứ quán thu hơn 4,6 triệu đồng một cuốn, nhưng chỉ nộp về ngân sách 1,6 triệu đồng một cuốn.
Với gần 1.900 người mãn hạn tù được tham gia “chuyến bay giải cứu”, bị cáo Thái và cấp dưới thu 44,6 tỷ đồng, nhưng các chi phí chỉ mất 33 tỷ, còn thừa hơn 11 tỷ đồng. Số tiền này, bị cáo Thái cùng cấp dưới giữ lại 5 tỷ đồng tại Đại sứ quán, số tiền còn lại chia nhau. Trong đó, bị cáo Thái được 580 triệu đồng, cấp dưới của bị cáo Thái hưởng ít hơn.
Theo lời khai của bị cáo Thái, sự việc bắt đầu từ tháng 1/2021, khi Malaysia ban bố tình trạng khẩn cấp, yêu cầu Đại sứ quán phải đưa người nước mình trong các trại chờ về nước.
“Những người phải về nước bao gồm thủy thủ đánh bắt cá trộm, người lao động trái phép và các cô gái làm nghề nhạy cảm, gọi là “đào”. Đại sứ quán biết có nhiều môi giới thu tiền về nước giá từ 40 đến 80 triệu đồng một người nên cử người xuống khảo sát, đưa công dân về nước”, bị cáo Thái khai.
Cũng theo bị cáo Thái, tiền cho người về nước được thu từ các chủ sử dụng lao động, chủ các ghe, tàu, chủ “đào”. Nếu họ không trả thì sẽ thu từ thân nhân, và nếu thân nhân từ chối thì Đại sứ quán mới đứng ra chi.
Về số tiền chênh lệch thu của người về nước hơn 11 tỷ đồng, bị cáo Thái khai nguyên nhân ngoài từ nguồn hộ chiếu, Đại sứ quán còn thu thêm một khoản “dự phòng khi có tình huống khẩn cấp”, nhưng sau không dùng đến nên bị cáo Thái chỉ đạo thủ quỹ giữ lại 5 tỷ đồng tại Đại sứ quán.
Một phần khác, bị cáo Thái chỉ đạo bồi dưỡng cho cán bộ trong đó, bị cáo Thái nhận 580 triệu đồng, các cấp dưới tùy theo vị trí mà được bồi dưỡng tương ứng, từ 220 – 480 triệu đồng.
“Nguyên tắc chi không hết phải trả lại cho công dân”, chủ tọa đặt vấn đề. Ông Thái thừa nhận đã chi sai số tiền thu thừa của công dân mãn hạn tù về nước và trong điều kiện dịch bệnh không kịp thời liên hệ để trả lại.
“Chúng tôi đã đưa được người về nước, nhưng phát sinh việc là có dư kinh phí. Bị cáo không chỉ đạo việc thu thêm để chia nhau mà kinh phí dự phòng dư lại một chút. Thời gian sau thì mới quyết định dùng số tiền này chia bồi dưỡng cho các cán bộ vì họ chấp nhận rủi ro đi làm khi dịch bệnh mà phải bỏ tiền túi ra thì cũng không ổn nên phải có chút động viên, bồi dưỡng”, ông Thái nói và cho biết đã nộp lại toàn bộ số tiền thu thừa.
Phạm Toàn