Có lẽ, câu hỏi bây giờ không còn là xác định xem Trung Quốc có giảm phát hay không mà là làm thế nào Trung Quốc có thể tránh rơi vào vực thẳm của khủng hoảng.
Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc công bố Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10 vào ngày 9/11, cho thấy mức giảm 0,2% so với cùng kỳ năm ngoái, đánh dấu một mức giảm khác kể từ tháng 7. Từ dữ liệu này, tác giả Black Noise đã phân tích vấn đề giảm phát và mối đe dọa đằng sau xu hướng giảm phát đối với nền kinh tế Trung Quốc.
Trung Quốc giảm phát hay chưa?
Giảm phát là gì? Nó đề cập đến sự suy giảm mức giá chung của một quốc gia, điều thường đi kèm với suy thoái kinh tế, nhu cầu tiêu dùng không đủ và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng.
Theo quan điểm chủ đạo, tiêu chuẩn để xác định giảm phát thực chất rất đơn giản. Các nhà kinh tế thường tin rằng khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) giảm, điều đó cho thấy tình trạng giảm phát. Theo tiêu chuẩn này, nền kinh tế Trung Quốc đã giảm phát. Đây là một tiêu chí giảm phát dựa trên một yếu tố.
Ngoài ra còn có một tiêu chuẩn đánh giá dựa trên tất cả các yếu tố: giảm phát không chỉ dẫn đến giảm giá mà còn đi kèm với việc giảm lượng tiền, giảm tốc độ lưu thông tiền và suy thoái kinh tế. Theo tiêu chuẩn này, Trung Quốc cũng có thể được coi là đã bước vào trạng thái tiền giảm phát.
Tuy nhiên, do quy mô khổng lồ nên nền kinh tế Trung Quốc thực sự là một hệ thống cực kỳ phức tạp. Ngoài ra, chính phủ Trung Quốc có quyền can thiệp mạnh mẽ vào nền kinh tế. Trong khi đó, lý thuyết kinh tế nói chung hướng đến môi trường kinh tế thị trường thuần túy nên ta không nên áp dụng khái niệm giảm phát một cách cứng nhắc cho trường hợp Trung Quốc.
Hai ví dụ điển hình về giảm phát
Giảm phát là một vấn đề đặc biệt về kinh tế.
Những ví dụ điển hình nhất về giảm phát là Mỹ trong cuộc Đại khủng hoảng năm 1929 và Nhật Bản sau khi nền kinh tế bong bóng vỡ vào những năm 1990.
Cuộc Đại khủng hoảng tồi tệ đến mức nào? Có rất nhiều người bị đói, vô số tài sản của người dân biến thành nợ chỉ sau một đêm, và người dân bình thường khó có thể tìm được việc làm. Nước Mỹ sau đó lại trở nên giàu có và hùng mạnh, nhưng cái giá mà người dân thường phải trả trong thời kỳ Đại khủng hoảng là quá nặng nề.
Sau khi Nhật Bản bị ảnh hưởng bởi lời nguyền giảm phát vào những năm 1990, nền kinh tế nước này về cơ bản không tăng trưởng trong 30 năm tiếp theo. Mặc dù năm nay nó đã quay trở lại xu hướng tăng trưởng nhưng vẫn chưa chắc liệu nó có thoát ra khỏi tình trạng trì trệ hay không.
Hãy tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra nếu Trung Quốc không thể tăng trưởng trong 30 năm tới?
So sánh Trung Quốc với Nhật Bản là không phù hợp lắm. Khi Nhật Bản rơi vào tình trạng giảm phát, GDP bình quân đầu người của nước này đã vượt Mỹ. Cho đến nay, Nhật Bản đã trải qua 30 năm không tăng trưởng nhưng vẫn nằm trong nhóm nước phát triển hàng đầu. Điều này thực sự cho thấy một con lạc đà gầy còn lớn hơn một con ngựa. Tuy nhiên, GDP bình quân đầu người của Trung Quốc vào năm 2022 chỉ bằng 1/7 của Mỹ và chất lượng ngành công nghiệp của nước này kém xa so với Nhật Bản. Nếu Trung Quốc rơi vào tình trạng giảm phát vào thời điểm này, hậu quả chắc chắn sẽ không thể tưởng tượng nổi.
Hiện tại và tương lai của kinh tế Trung Quốc
Có lẽ nên bắt đầu phân tích từ những đặc thù của nền kinh tế Trung Quốc.
Hãy nhìn vào Chỉ số giá sản xuất (PPI). Thống kê cho thấy chỉ số giá sản xuất công nghiệp (PPI) tháng 10 giảm 2,6% so với cùng kỳ và mức giảm tăng 0,1% so với tháng 9. Đây là mức giảm PPI hàng tháng thứ 13 liên tiếp.
Đây là điều đáng để thảo luận. Tại sao việc giảm giá ở phía người tiêu dùng lại đi cùng việc giảm giá sản phẩm ở phía sản xuất? Việc giảm giá tiêu dùng có thể được lý giải chủ yếu là do giá thịt lợn giảm, nhưng hiện tượng “giảm giá kép” cho thấy vấn đề không đơn giản như vậy.
Sự sụt giảm kép rõ ràng là do “vấn đề cũ” của nền kinh tế Trung Quốc vẫn chưa được giải quyết, đó là tình trạng dư thừa công suất sản xuất. Nghĩa là, sản xuất quá nhiều nhưng nhu cầu vẫn quá yếu.
Đây là một ví dụ thực tế về tình trạng dư thừa công suất sản xuất.
Hãy cùng tiến thêm một bước nữa và xem xét tốc độ tăng trưởng của GDP.
Theo Cục Thống kê Quốc gia, GDP của Trung Quốc đã tăng 5,2% so với cùng kỳ trong ba quý đầu năm nay và nhìn chung dự kiến sẽ vượt quá 5% trong quý IV.
Vì vậy, câu hỏi cốt lõi ở đây là: Tại sao số liệu GDP rất tốt nhưng giá tiêu dùng và giá nhà máy lại giảm? GDP này đến từ đâu? Theo lẽ thường, GDP và chỉ số giá cần có mức tăng trưởng đồng bộ.
Lúc này, kết hợp với tình trạng dư thừa công suất vừa nêu, chúng ta sẽ có câu trả lời: GDP thực chất là do sản xuất thừa và đầu tư của chính phủ chứ không phải do phục hồi kinh tế. Những cục pin được sản xuất dư thừa và những thứ tương tự là động lực chính của GDP. Trên thực tế, vấn đề không đủ cầu đang trở nên trầm trọng hơn.
Có thể nói, nền kinh tế ốm yếu của Trung Quốc đã không uống đúng liều thuốc trong năm nay. Nhiều năm dư thừa công suất và đầu tư quá mức đã tích lũy những bất lợi trong nền kinh tế và vẫn đang tiến về phía trước dưới lá cờ GDP. Tuy nhiên, nhu cầu không những không theo kịp mà thậm chí còn tụt hậu hơn nữa. Hiện tượng dùng thuốc độc giải khát bằng cách mở rộng năng lực sản xuất và đầu tư của chính phủ để duy trì tăng trưởng GDP cao vẫn tiếp diễn.
Vậy việc tranh luận về giảm phát có quan trọng hay không?
Giờ đây, với vấn đề nợ nần và vấn đề bất động sản lại được thêm vào, cho dù chính sách tài khóa có được đưa ra để “rót thêm nước”, nó cũng khó có thể khiến nước chảy đến nơi cần chảy trong khi rất có thể sẽ lấp đầy hố từ các khoản nợ. Do đó, trên thực tế, danh sách các biện pháp kích thích của Bắc Kinh trở nên ít đi.
Vì vậy, câu hỏi bây giờ không còn là xác định xem có giảm phát hay không mà là làm thế nào Trung Quốc có thể tránh rơi vào vực thẳm của khủng hoảng.
Một biện pháp mà Bắc Kinh có thể thực hiện là tung ra các khoản trợ cấp tiêu dùng quy mô lớn (như điều mà Mỹ và một số nước phương Tây đã làm). “Mở rộng nhu cầu trong nước” đã được kêu gọi hơn 20 năm nay. Bây giờ, có lẽ đã đến lúc áp dụng nó vào thực tế.
Nếu Trung Quốc vẫn tập trung chờ đợi nhu cầu nước ngoài phục hồi, cho rằng không có giảm phát thay vì nhanh chóng “chữa bệnh” thì khi rắc rối thực sự xảy ra, đó có thể là một cuộc khủng hoảng chưa từng có.
Đối với một số bệnh nặng, giai đoạn đầu sẽ có những dấu hiệu nhỏ. Có khi những dấu hiệu này bị bỏ qua, căn bệnh bị bỏ qua, hoặc các phương pháp can thiệp sớm lại sai, và cuối cùng nó trở thành bệnh nặng thực sự.
Tình hình còn nghiêm trọng hơn trường hợp của Nhật Bản
Ông Tạ Điền là Giáo sư về Kinh doanh tại Đại học Nam Carolina Aiken. Trước những ý kiến cho rằng nền kinh tế Trung Quốc hiện đang trì trệ theo cách tương tự như Nhật Bản vào đầu “Thập kỷ mất mát” (cũng là thời điểm Nhật Bản rơi vào giảm phát những năm 1990), vào ngày 25/07, ông Tạ đã trao đổi với The Epoch Times về sự khác biệt giữa tình hình Trung Quốc và Nhật Bản. Theo ông Tạ, các vấn đề của Trung Quốc nghiêm trọng hơn so với Nhật Bản trong những năm 1990.
Ông Tạ nói: “Một số người nói rằng Trung Quốc đang ở trong một tình huống tương tự như ‘Thập kỷ mất mát’ của Nhật Bản, và thực sự có một số điểm tương đồng”. “Đúng là Nhật Bản đã trải qua sự sụp đổ của thị trường chứng khoán và thị trường nhà ở vào thời điểm đó, và nền kinh tế Nhật Bản đã chậm lại trong suốt những năm 1990. Trên thực tế, Thập kỷ mất mát [của Nhật] kéo dài hơn một thập kỷ, nó đã được kéo dài thành 20, 30 năm. Nhưng sự thực thì, tình hình hiện tại của Trung Quốc vẫn rất khác so với tình hình của Nhật Bản vào những năm 1990”.
“Nhiều chính quyền địa phương ở Trung Quốc đều đã tham gia vào lĩnh vực bất động sản. Các khoản nợ của các chính quyền cơ sở này, các khoản nợ của các nền tảng tài chính và các khoản nợ có đòn bẩy cao của các ngân hàng quốc doanh do cho vay bất động sản đều là vấn đề của chính phủ, hay nói cách khác là vấn đề của toàn dân”, ông ấy tiếp tục. “Những người giàu có và quyền lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc, các đại diện kinh doanh của họ trong ngành bất động sản và một số nhà phát triển đã được hưởng lợi từ việc này, nhưng trên thực tế, tất cả người dân Trung Quốc hiện đang mắc nợ, điều này rất khác với tình huống ở Nhật Bản”.
Tiêu dùng, đầu tư tài sản cố định và xuất khẩu được gọi chung là “cỗ xe tam mã”, động lực chính của nền kinh tế Trung Quốc.
Ông Tạ chỉ ra rằng ở Trung Quốc, cả ba yếu tố này đều bị đình trệ.
“Trung Quốc đang trải qua sự sụt giảm lớn đối với cả nhập khẩu và xuất khẩu, việc xây dựng cơ sở hạ tầng quá mức và nhu cầu trong nước chậm lại, nhưng Nhật Bản không gặp phải những vấn đề này. Đối với người dân Nhật Bản, chưa bao giờ có vấn đề về mức sống hay mức tiêu dùng, cũng như chưa bao giờ họ phải chịu tỷ lệ thất nghiệp cao như ở Trung Quốc”, ông Tạ nói tiếp.
Nhìn lại, một số nhà phân tích đã đưa ra một số quan điểm mới về Thập kỷ mất mát của Nhật Bản, nói rằng mặc dù trải qua một thập kỷ suy thoái kinh tế nhưng Nhật Bản không xuất hiện vấn đề xã hội nghiêm trọng nào. Ngoài ra, môi trường kinh tế của Nhật Bản đã trải qua những thay đổi ổn định kể từ đó và các công ty Nhật Bản cũng điều chỉnh lại trong giai đoạn này và giành lại vị trí dẫn đầu về công nghệ trong lúc tiếp tục phát triển công nghệ của mình. Vì vậy, tình hình ở Nhật khác với Trung Quốc.
“Nếu bạn khẳng định có sự tương đồng, thì nhìn bề ngoài, sự vỡ bong bóng bất động sản đã xảy ra ở cả hai quốc gia. Nhưng xét về các vấn đề thực tế thì không có sự tương đồng nào cả”, ông Tạ nói.
Điều này là do đã không có bất ổn xã hội hay bất ổn chính trị ở Nhật Bản, cũng như không có bất kỳ vấn đề nào với cấu trúc xã hội. Mặt khác, nếu giá nhà đất ở Trung Quốc tiếp tục giảm, cùng với tỷ lệ thất nghiệp tăng cao và thu nhập bị thu hẹp, sự cai trị của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) và sự ổn định của xã hội sẽ bị đe dọa nghiêm trọng và hậu quả sẽ nghiêm trọng hơn nhiều so với ở Nhật Bản, ông Tạ nói.
Bảo Nguyên tổng hợp