Thẩm Chu
Vào ngày 1/5, Trung Quốc đã công khai rầm rộ về việc tàu sân bay Phúc Kiến rời cảng để chạy thử trên biển. Hai tàu sân bay hiện đang được quân đội Trung Quốc biên chế chỉ có thể như ‘có còn hơn không’. Tàu Phúc Kiến vẫn chưa được bàn giao và vẫn khó sánh được với Hải quân Mỹ, ngay cả khi so sánh với tàu sân bay của Nhật Bản cách đây hơn 80 năm, sức mạnh tàu sân bay của Trung Quốc cũng có sự chênh lệch rõ ràng.
Quân đội Nhật Bản từng huy động 6 hạm đội tàu sân bay tấn công bất ngờ Trân Châu Cảng, trong khi Trung Quốc hiện nay chỉ mới phô trương bề ngoài nhưng thực chất vẫn còn kém xa.
Quân Nhật tấn công Trân Châu Cảng bằng 6 tàu sân bay
83 năm trước, ngày 7/12/1941, Nhật Bản bất ngờ tấn công Trân Châu Cảng, cảng quân sự ở Hawaii. Quân đội Hoa Kỳ đã lơ là đề phòng, và các cuộc không kích của Nhật Bản đã gây thiệt hại nặng nề cho quân đội Hoa Kỳ, kích động Chiến tranh Thái Bình Dương, đồng thời tấn công Philippines, Malaysia, Guam và các nơi khác, nhưng cuối cùng bị quân đội Hoa Kỳ đánh bại. Sau chiến tranh, Nhật Bản trở lại hòa bình và từ bỏ hoàn toàn chủ nghĩa quân phiệt. Ngày nay, Trung Quốc đã dấn thân vào con đường chủ nghĩa quân phiệt, cố gắng hết sức để phát triển tàu sân bay. Đầu tiên họ bắt chước Liên Xô cũ, nhưng cuối cùng lại đi đường vòng, và giờ đây họ lại muốn sao chép của Hoa Kỳ.
Tuyên truyền của Trung Quốc coi thường tàu sân bay Nhật Bản thời xưa, cho rằng tàu sân bay Trung Quốc vượt trội hơn nhiều về cả tấn số và kỹ thuật so với 80 năm trước. Tuy nhiên, sức mạnh chiến đấu thực tế mà tàu sân bay Nhật Bản thể hiện khi đó, Trung Quốc hiện tại chỉ còn nước ngửa mặt lên trời mà mơ tưởng.
Ngày 26/11/1941, quân đội Nhật Bản đã huy động 6 tàu sân bay đến vùng biển Hawaii, các tàu ngầm cũng bí mật xâm nhập và tiến hành tấn công cùng lúc.
Sáng ngày 7/12/1941, máy bay chiến đấu từ tàu sân bay Nhật Bản cất cánh đợt đầu tiên với 183 chiếc, nhắm vào các tàu chiến Mỹ đang neo đậu ở Trân Châu Cảng. Do các tàu sân bay Mỹ không có trong bến cảng, các thiết giáp hạm hạng nặng hàng vạn tấn trở thành mục tiêu chính.
Nhóm thứ nhất có tổng cộng 89 máy bay tấn công hoạt động trên tàu sân bay Type 97, trong đó có 49 chiếc mang bom xuyên giáp nặng 1.760 pound và 40 chiếc mang ngư lôi Type 91.
Nhóm thứ hai có tổng cộng 51 máy bay ném bom hoạt động trên tàu sân bay Type 99, mang theo bom nặng 550 pound.
Nhóm thứ ba có tổng cộng 43 máy bay chiến đấu Type Zero tranh giành ưu thế trên không và tấn công mặt đất.
Trong đợt tấn công đầu tiên của Nhật Bản, khoảng 8 quả bom xuyên giáp nặng 1.760 pound đã đánh trúng mục tiêu thiết giáp hạm dự định, đồng thời 17 quả ngư lôi cũng đánh trúng mục tiêu thiết giáp hạm. Quân đội Hoa Kỳ đã mất cảnh giác. Chỉ có 1/4 số súng máy phòng không được đưa vào chiến đấu và chỉ có 4 trong số 31 khẩu đội pháo phòng không được đưa vào sử dụng.
Tàu sân bay Nhật Bản sau đó cất cánh đợt thứ hai gồm 171 máy bay chiến đấu, nhắm vào sân bay quân sự Mỹ.
Nhóm đầu tiên có tổng cộng 54 máy bay tấn công hoạt động trên tàu sân bay Type 97, mang theo bom nặng 550 pound và 132 pound.
Nhóm thứ hai có tổng cộng 81 máy bay ném bom hoạt động trên tàu sân bay Type 99, mang theo bom nặng 550 pound.
Nhóm thứ ba có tổng cộng 36 máy bay chiến đấu Type Zero, chịu trách nhiệm kiểm soát trên không và oanh tạc mặt đất.
Hai đợt không kích của Nhật Bản kéo dài 90 phút và đạt được kết quả đáng kể. 18 tàu chiến Mỹ bị đánh chìm hoặc mắc cạn, trong đó có 8 thiết giáp hạm, 3 tàu tuần dương và 3 tàu khu trục; chiến hạm USS Arizona trọng tải 32.000 tấn bị phá hủy hoàn toàn và không thể sửa chữa được. 2.402 lính Mỹ thiệt mạng và 1.282 người bị thương.
Trong số 402 máy bay chiến đấu của quân đội Mỹ đóng tại Hawaii, 188 chiếc bị phá hủy và 159 chiếc bị hư hại. Chỉ có 8 phi công cất cánh kịp thời và 6 chiếc được cho là đã bắn rơi ít nhất một máy bay chiến đấu của Nhật Bản.
55 phi công Nhật Bản và 9 thủy thủ tàu ngầm thiệt mạng trong cuộc tấn công và 1 người bị bắt. 354/414 máy bay trên tàu sân bay Nhật Bản tham gia các cuộc không kích, và chỉ một số không thể cất cánh; 9 máy bay bị tổn thất trong đợt đầu tiên và 20 chiếc trong đợt thứ hai. Do tổn thất lớn hơn ở đợt thứ hai, quân Nhật lo ngại hỏa lực phòng không Mỹ sẽ mạnh hơn nên không tiến hành đợt không kích thứ ba, không đánh chìm được thêm tàu chiến Mỹ, đồng thời cũng bắn trượt cơ sở bảo trì và kho chứa dầu của quân đội Mỹ. Quân đội Nhật Bản cũng lo lắng hạm đội tàu sân bay khổng lồ có thể gặp phải đòn phản công của quân đội Mỹ nếu ở lại lâu nên đã ra lệnh quay trở lại ngay lập tức.
Ông Isoroku Yamamoto, người đang ngồi tại sở chỉ huy, lấy làm tiếc vì chỉ huy tiền tuyến Nagumo đã không phát động đợt không kích thứ ba, vì điều này có thể trì hoãn cuộc phản công của quân đội Mỹ thêm 1 đến 2 năm nữa. Kết quả, trong số 21 tàu chiến bị hư hỏng của quân đội Mỹ, chỉ có 3 chiếc không được sửa chữa, số còn lại nhanh chóng được khôi phục và đưa vào sử dụng.
83 năm trước, hạm đội tàu sân bay Nhật Bản lần đầu tiên thực hiện các cuộc không kích quy mô lớn; 83 năm sau, các tàu sân bay của Trung Quốc vẫn thiếu khả năng không kích tương tự.
Quy mô của hạm đội tàu sân bay Nhật Bản
Nhật Bản bắt đầu đóng tàu sân bay đầu tiên vào năm 1919. 22 năm sau, vào thời điểm phát động Chiến tranh Thái Bình Dương năm 1941, Nhật Bản đã có 6 tàu sân bay chính, bao gồm:
Tàu Akagi có lượng giãn nước đầy tải 36.000 tấn và mang theo tối đa 91 máy bay hoạt động trên tàu sân bay.
Tàu Kaga có lượng giãn nước đầy tải là 38.000 tấn và có thể mang theo tối đa 90 máy bay hoạt động trên tàu sân bay.
Tàu Shokaku có lượng giãn nước đầy tải là 32.000 tấn và có thể mang tối đa 84 máy bay hoạt động trên tàu sân bay.
Tàu Zuikaku có lượng giãn nước đầy tải là 32.000 tấn và có thể mang tối đa 84 máy bay hoạt động trên tàu sân bay.
Tàu Soryu có lượng giãn nước đầy tải là 19.000 tấn và có thể mang theo tối đa 72 máy bay hoạt động trên tàu sân bay.
Tàu Feilong có lượng giãn nước đầy tải là 17.600 tấn và có thể mang theo tối đa 73 máy bay hoạt động trên tàu sân bay.
Tốc độ của 6 tàu sân bay chính này dao động từ 31,5 hải lý/giờ (58,3 km/giờ) đến 34,5 hải lý/giờ (63,9 km/giờ), và tầm hoạt động tối đa của chúng dao động từ 12.200 km đến 19.000 km, tương đương với các tàu chiến hiện đại.
Ngoài ra còn có 6 tàu sân bay hạng nhẹ, bao gồm: Qianji có lượng giãn nước đầy tải 15.500 tấn và 30 máy bay hoạt động trên tàu sân bay hoặc 24 thủy phi cơ; Chiyoda có lượng giãn nước đầy tải 15.500 tấn và 30 máy bay hoạt động trên tàu sân bay hoặc 24 thủy phi cơ; Zuiho có lượng giãn nước tối đa 14.000 tấn và 30 máy bay hoạt động trên tàu sân bay; Xiangfeng có lượng giãn nước tối đa 13.000 tấn và 30 máy bay hoạt động trên tàu sân bay; Ryūjō có lượng giãn nước tối đa 10.000 tấn và 48 máy bay hoạt động trên tàu sân bay; Fengxiang có lượng giãn nước đầy tải 9.646 tấn và có 15 máy bay hoạt động trên tàu sân bay.
Tốc độ tối đa của 6 tàu sân bay hạng nhẹ này dao động từ 25 hải lý/giờ (46 km/giờ) đến 29 hải lý/giờ (54 km/giờ), và tầm hoạt động tối đa dao động từ 11.800 km đến 19.000 km. Chúng chủ yếu thực hiện nhiệm vụ hộ tống và cũng có thể hợp tác với các tàu sân bay chủ lực khi cần thiết. Trọng tải của các tàu sân bay vào thời điểm đó nhỏ hơn so với các tàu sân bay hiện đại và lớn nhất gần bằng tàu tấn công đổ bộ 40.000 tấn hiện đang phục vụ trong quân đội Mỹ, sánh ngang với các tàu chiến hiện đại và tầm bắn của chúng thậm chí còn xa hơn.
Tàu sân bay Sơn Đông của Trung Quốc có lượng giãn nước từ 60.000 đến 70.000 tấn, tốc độ tối đa 31 hải lý/giờ (57 km/giờ) và tầm hoạt động tối đa chưa được xác định. Nó được cho là có thể chở 36 máy bay hoạt động trên tàu sân bay, bao gồm 24 chiếc J-15 và 12 chiếc trực thăng. Tàu sân bay Phúc Kiến dự kiến sẽ mang theo 60 máy bay hoạt động trên tàu sân bay, trong đó có 36 đến 40 máy bay chiến đấu J-15T (hoặc J-35), máy bay chiến đấu điện J-15D, máy bay cảnh báo sớm KJ-600 và 20 máy bay trực thăng.
Máy bay hoạt động trên tàu sân bay của Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai không thể so sánh với máy bay chiến đấu hiện đại, tốc độ không cao nhưng trọng lượng nhẹ, tàu sân bay có thể chở được số lượng lớn máy bay và tầm hoạt động của nó cũng có thể đáp ứng yêu cầu trong thời gian dài và các cuộc tấn công từ xa. Sức mạnh của các cuộc không kích quy mô lớn được nêu bật.
Khi Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng năm 1941, Hải quân có hơn 3.089 máy bay các loại và 370 máy bay huấn luyện. Có tổng cộng 1.830 máy bay chiến đấu tiền tuyến, bao gồm 660 máy bay chiến đấu, 330 máy bay tấn công trên tàu sân bay, 240 máy bay ném bom trên đất liền, 520 máy bay chiến đấu dưới nước và máy bay trinh sát. Quy mô và sức mạnh này Hải quân Trung Quốc không thể sánh được, riêng số lượng phi công đã khác xa.
Đẳng cấp thực sự của tàu sân bay của Trung Quốc
Năm 2005, tàu sân bay Varyag cũ của Liên Xô được Trung Quốc mua đã vào Nhà máy đóng tàu Đại Liên. Đến năm 2024, các tàu sân bay của Trung Quốc cũng đã được phát triển được gần 20 năm. Có 2 tàu sân bay đang hoạt động, 1 chiếc đang được đóng và khoảng 60 chiếc tiêm kích J-15 dù là tiêm kích hạng nặng đa năng hoạt động trên tàu sân bay nhưng khả năng chiến đấu thực tế của chúng không hề tốt.
J-15 mô phỏng S-33 của Nga có trọng lượng rỗng 17,5 tấn, tổng trọng lượng 27 tấn và trọng lượng cất cánh tối đa 32,5 tấn, quá nặng đối với một máy bay hoạt động trên tàu sân bay, do đó không thể cất cánh khi đầy tải. Tàu sân bay Trung Quốc đã nhiều lần cất cánh và hạ cánh J-15 bên ngoài chuỗi đảo đầu tiên, người ta chỉ thấy khả năng mang theo tên lửa không đối không cũng bị hạn chế, tầm bắn bị thu hẹp đáng kể, rất khó để thực sự tiến hành các cuộc không kích từ biển. Ý tưởng thiết kế ban đầu của tàu sân bay Liên Xô cũ là mở rộng phạm vi phòng không ven biển chứ không phải để tiến hành các cuộc không kích.
Tổng trọng lượng của 3 máy bay hoạt động trên tàu sân bay Nhật Bản trong Thế chiến thứ hai là khoảng 3,8 tấn. Có thể thấy, các kỹ sư Nhật Bản đã trải qua quá trình thiết kế và lên kế hoạch cẩn thận. Những chiếc máy bay hạng nhẹ này có thể dễ dàng cất cánh và hạ cánh trên boong tàu sân bay. Do số lượng máy bay nhiều nên việc cất cánh và hạ cánh theo trình tự là một khó khăn lớn.
Tàu sân bay Trung Quốc vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm, tiêm kích J-15 không phù hợp với vai trò tiêm kích hạm, J-35 vẫn chỉ là tin đồn. Tàu sân bay thứ ba của Trung Quốc, Phúc Kiến, sử dụng hệ thống phóng điện từ, hy vọng có thể phóng tiêm kích J-15T, J-15D và máy bay cảnh báo sớm trên không KJ-600 cải tiến cất cánh, nhưng điều này vẫn chưa được xác minh.
Trung Quốc không chỉ thiếu tàu sân bay, mà các máy bay trên tàu sân bay cũng chưa được trang bị đầy đủ, bao gồm cả nhiều loại trực thăng. Trung Quốc đang chờ tàu Phúc Kiến hoàn thiện trước khi có thể thử nghiệm trên tàu. Số lượng máy bay và phi công hoạt động trên tàu sân bay rất hạn chế. Vào năm 2023, phần lớn lực lượng không quân của Hải quân sẽ được chuyển giao cho Không quân, chỉ còn lại hai căn cứ huấn luyện J-15 ở Hưng Thành, tỉnh Liêu Ninh và Lăng Thủy, tỉnh Hải Nam. Căn cứ thứ ba đang được thành lập ở Đại Trường, Thượng Hải, nhưng các biến thể J-15 khác nhau sẽ được thử nghiệm để phù hợp với máy phóng của Phúc Kiến. Những chiếc J-15 của Liêu Ninh và Sơn Đông dường như trở nên vô dụng.
Tàu sân bay của Trung Quốc đã ở gần Guam và vẫn cách Hawaii rất xa nên việc đánh lén là điều không thể. Trung Quốc thực sự chưa có khả năng tấn công trên không như tàu sân bay Nhật Bản thể hiện cách đây 83 năm. Quy mô của hải quân Nhật Bản nằm ngoài tầm với của Trung Quốc.
Hải quân Nhật Bản xưa và nay
Khi người Nhật tấn công Trân Châu Cảng năm 1941, họ đã phái 6 tàu sân bay, 2 thiết giáp hạm, 2 tàu tuần dương hạng nặng, 1 tàu tuần dương hạng nhẹ, 9 tàu khu trục, 8 tàu chở dầu, 23 tàu ngầm, 5 tàu ngầm hạng nhỏ và tổng cộng 414 máy bay hoạt động trên tàu sân bay.
Sau đó, quân đội Nhật Bản và quân đội Hoa Kỳ phát động Trận chiến biển San hô, Trận chiến đảo Midway và Trận quần đảo Solomon. Sau đó, quân đội Nhật Bản chịu tổn thất lớn về tàu sân bay, ít nhất 5 tàu sân bay mới và 5 tàu sân bay hạng nhẹ được chế tạo hoặc cải tiến, và cuối cùng tất cả đều bị mất trong trận hải chiến quần đảo Mariana và Philippines.
Trong Chiến tranh Thái Bình Dương, quân đội Nhật Bản có 13 tàu sân bay, 10 tàu sân bay hộ tống, 12 thiết giáp hạm lớn, 18 tàu tuần dương hạng nặng, 25 tàu tuần dương hạng nhẹ, 169 tàu khu trục, 180 tàu khu trục hộ tống và 195 tàu ngầm. Một hạm đội khổng lồ như vậy cuối cùng vẫn bị Hoa Kỳ đánh bại. Thực ra đó là ý Trời, cái ác không thể thắng được cái thiện.
Trung Quốc hiện có 2 tàu sân bay, 8 tàu khu trục 055, có 25 tàu khu trục 052D, 13 tàu khu trục thử nghiệm 051/052 (B/C) các loại, 4 tàu khu trục lớp hiện đại, có 42 khinh hạm 054(A), có 41 tàu ngầm chạy bằng năng lượng thông thường và 9 tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân, gần như phân bố đều giữa ba chiến trường. Nỗ lực của Trung Quốc nhằm thách thức quân đội Hoa Kỳ và các đồng minh của nước này đánh giá quá cao khả năng của họ.
Lực lượng Phòng vệ Hàng hải Nhật Bản đã cải tiến 2 khinh hạm chở trực thăng lớp Izumo, có thể chở tới 18 máy bay chiến đấu F-35B; ngoài ra còn có 2 tàu sân bay trực thăng lớp Hyuga, 36 tàu khu trục các loại và 24 tàu ngầm. Hải quân Chiến trường phía Bắc của Trung Quốc có một tàu sân bay, 4 tàu khu trục Loại 055, 8 tàu khu trục Loại 052D, 4 tàu khu trục Loại 051C/052 được sản xuất thử nghiệm, 9 tàu khu trục Loại 054A và 13 tàu ngầm, nước này đã nhiều lần cử tàu chiến đi vòng qua Nhật Bản. Sự khiêu khích có chủ ý của Trung Quốc đã buộc Nhật Bản phải tăng đáng kể chi tiêu quân sự và tăng cường khả năng phản công. Trung Quốc đã biến nước láng giềng thân cận của mình thành kẻ thù hùng mạnh, đưa Nhật Bản và Hoa Kỳ hợp tác chặt chẽ hơn.
So với chủ nghĩa quân phiệt của Nhật Bản 80 năm trước, chủ nghĩa quân phiệt của Đảng Cộng sản Trung Quốc thậm chí còn tệ hơn. Tuy nhiên, sức mạnh chiến đấu thực tế của quân đội Trung Quốc có sự chênh lệch rất lớn, họ cũng biết rằng có quá nhiều “sức mạnh quân sự ảo” được biểu diễn. Trong lúc quân đội của Trung Quốc đang trong tình trạng nội loạn, tàu sân bay Phúc Kiến được sử dụng để làm công cụ truyền thông chính trị, nhưng điều này không thể che giấu được sức mạnh thực chiến của tàu sân bay Trung Quốc, cũng như không thể che giấu đi sự yếu kém ngày càng tăng của Trung Quốc.
Theo The Epoch Times
Lý Ngọc biên dịch