Cuộc chiến của Mỹ chống lại công nghệ Trung Quốc đang phản tác dụng

Nguồn: Scott Kennedy, “How America’s War on Chinese Tech Backfired,” Foreign Affairs, 26/11/2024

Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng

Và tại sao kế hoạch của Trump sẽ khiến mọi thứ trở nên tệ hơn?

Cuối tháng 9 vừa qua, chính quyền Biden đã ban hành một dự thảo luật cấm lưu hành các loại xe kết nối và tự hành của Trung Quốc cùng các bộ phận của chúng tại thị trường Mỹ. Đây là một trong những bước mới nhất trong số nhiều bước mà các nhà hoạch định chính sách Mỹ đã thực hiện để bảo vệ an ninh kinh tế của nước này. Dưới thời chính quyền Trump đầu tiên, Washington đã áp đặt nhiều hạn chế đối với các công ty viễn thông ZTE và Huawei. Tổng thống kế nhiệm Joe Biden đã duy trì nhiều chính sách của Trump đối với Trung Quốc và còn đưa ra thêm các chính sách mới, bao gồm việc khởi xướng các biện pháp kiểm soát xuất khẩu sâu rộng vào cuối năm 2022 nhắm vào các chất bán dẫn và thiết bị bán dẫn tiên tiến. Vì chính quyền Trump sắp tới dường như đã sẵn sàng đẩy nhanh và mở rộng các hạn chế này hơn nữa, có lẽ chúng ta nên xem xét thành tích của các chính sách này và đánh giá những đánh đổi mà chúng đòi hỏi.

Bộ công cụ của Washington là cực kỳ đa dạng: kiểm soát xuất khẩu, thuế quan, lệnh cấm sản phẩm, sàng lọc đầu tư vào và ra, hạn chế luồng dữ liệu, khuyến khích chuyển đổi chuỗi cung ứng, hạn chế trao đổi học thuật và hợp tác nghiên cứu, trợ cấp chính sách công nghiệp, và khuyến khích mua hàng Mỹ. Mục tiêu của các biện pháp này cũng đa dạng không kém: làm chậm tiến độ của Trung Quốc trong các công nghệ tiên tiến nhất có tiềm năng lưỡng dụng, giảm sự phụ thuộc quá mức vào Trung Quốc như một nguồn đầu vào và như một thị trường cho hàng hóa phương Tây, từ chối cho Trung Quốc tiếp cận dữ liệu nhạy cảm, bảo vệ các cơ sở hạ tầng quan trọng, chống trả các hoạt động cưỡng ép kinh tế, bảo vệ khả năng cạnh tranh công nghiệp của Mỹ, và thúc đẩy việc làm trong ngành sản xuất của nước này.

Việc Bắc Kinh chuyển hướng sang một hình thức chủ nghĩa dân tộc công nghệ trọng thương mở rộng và quyết đoán hơn đặt ra những rủi ro thực sự đối với sự thịnh vượng và an ninh kinh tế của Mỹ và các nước khác. Chắc chắn phải làm điều gì đó, nhưng các chính sách ngày càng mang tính hạn chế của Washington đã mang lại những kết quả rất trái chiều. Hãy lấy mục tiêu làm chậm tiến trình phát triển công nghệ của Trung Quốc và duy trì lợi thế công nghệ tương đối của Mỹ làm ví dụ. Trong quá trình theo đuổi mục tiêu này, Washington đã chứng kiến sự tiến bộ trong một số lĩnh vực, chẳng hạn như làm chậm lĩnh vực bán dẫn của Trung Quốc, nhưng lại chứng kiến sự thành công thậm chí còn nhanh hơn của Trung Quốc trong các lĩnh vực khác, chẳng hạn như trong lĩnh vực xe điện và pin. Tồn tại những căng thẳng cố hữu giữa các mục tiêu an ninh kinh tế khác nhau của Washington, với sự tiến bộ trong một số lĩnh vực chắc chắn sẽ làm chậm tiến độ trong những lĩnh vực khác. Ngoài ra, các nhà hoạch định chính sách của Mỹ đã không cân nhắc đầy đủ về cách Trung Quốc và các nước khác sẽ thích ứng với các hạn chế của Mỹ.

Khi Tổng thống đắc cử Donald Trump trở lại nắm quyền, sẽ là khôn ngoan nếu chính quyền của ông chịu suy ngẫm về thực tế rằng: các hạn chế hiện tại đối với công nghệ Trung Quốc đã mang lại những kết quả trái chiều rõ rệt. Chính quyền Biden đã mô tả chiến lược của mình là “sân nhỏ, hàng rào cao” – nghĩa là đặt ra các hạn chế cao đối với một số ít công nghệ quan trọng. Nhưng cái sân đó đang lớn dần, đem lại những hậu quả tiêu cực không mong muốn đối với Mỹ. Nếu chính quyền Trump theo đuổi một sự phân tách sâu rộng hơn, thì cái giá phải trả sẽ tăng theo cấp số nhân.

KẾT QUẢ TRÁI CHIỀU

Hiệu quả của các biện pháp của Mỹ có vẻ rõ ràng nhất khi chúng ta xem xét tình trạng của các công ty và ngành công nghiệp cụ thể đã bị họ nhắm mục tiêu, đặc biệt là với các biện pháp kiểm soát xuất khẩu và hạn chế tiếp cận thị trường Mỹ. Ngành công nghiệp bán dẫn của Trung Quốc đã gặp khó khăn lớn nhất. Trong vài năm qua, Bộ Thương mại Mỹ đã đưa khoảng 850 tổ chức và cá nhân Trung Quốc vào Danh sách Thực thể Bị cấm, về cơ bản là ngăn không cho họ tiếp cận các công nghệ tiên tiến nhất của Mỹ. Tháng 10/2022, Bộ Thương mại cũng áp đặt các hạn chế nghiêm ngặt đối với các công ty Mỹ bán chất bán dẫn và thiết bị tiên tiến cho các công ty Trung Quốc. Washington cũng buộc các cường quốc chip khác, đáng chú ý nhất là Nhật Bản và Hà Lan, hạn chế bán hàng cho Trung Quốc. Tác động đã đến ngay lập tức và rất tàn khốc đối với một số công ty Trung Quốc, những công ty không còn có thể mua một số loại chip nhất định, chẳng hạn như chất bán dẫn tiên tiến nhất của Nvidia được sử dụng trong các ứng dụng trí tuệ nhân tạo. Hơn nữa, các nhà cung cấp thiết bị và phần mềm phương Tây đã chuyển các cơ sở sản xuất của họ đi khỏi Trung Quốc, bỏ mặc người Trung Quốc phải tự tìm cách giải quyết vấn đề. Như một giám đốc điều hành người Trung Quốc gần đây đã nói với tôi, “Chúng tôi đã chuyển từ đầu bếp trong bếp sang làm nông dân trên đồng ruộng.” Tỷ lệ lợi nhuận thấp hơn và hiệu suất kém hơn khiến các công ty bị ảnh hưởng tụt hậu hẳn so với các đối thủ cạnh tranh phương Tây so với trước đây.

Bắc Kinh đã trao cho các công ty chip Trung Quốc toàn quyền quyết định và mọi ưu đãi có thể tưởng tượng được về mặt quy định trong một nỗ lực nhằm lấp đầy lỗ hổng và thu hẹp khoảng cách, nhưng họ vẫn còn kém xa so với các đối tác ở Mỹ, Nhật Bản, và Hàn Quốc. Và các nhà sản xuất thiết bị sản xuất và nhà cung cấp phần mềm của Trung Quốc thậm chí còn đang tụt hậu xa hơn. Các doanh nhân tại các công ty AI của Trung Quốc nói với tôi rằng lệnh cấm chip của Nvidia đã cản trở nỗ lực đào tạo các mô hình ngôn ngữ lớn và phát triển các loại ứng dụng kinh doanh tùy chỉnh khác của họ.

Hiện tại, Mỹ đang trong giai đoạn đầu áp dụng các biện pháp chống lại các ngành công nghiệp khác. Mức thuế quan cao mà Biden áp dụng đối với xe điện và pin trong năm nay, cùng với lệnh cấm nhập khẩu xe kết nối và xe tự hành sắp tới, sẽ thực sự khiến thị trường Mỹ trở thành vùng cấm đối với tất cả các nhà sản xuất xe hơi Trung Quốc. Mỹ thậm chí có thể sẽ chặn các công ty dược phẩm Mỹ sử dụng các công ty Trung Quốc để tiến hành thử nghiệm lâm sàng, hạn chế đầu tư dược phẩm của Mỹ vào Trung Quốc, và không cho phép các loại thuốc được phát triển tại Trung Quốc tiếp cận thị trường Mỹ. Và nếu Trung Quốc có thể tăng cường sản xuất máy bay thương mại mới của mình, C919, và bắt đầu xuất khẩu nó trên toàn thế giới, thì Washington cũng có thể thêm một số bộ phận máy bay do Mỹ sản xuất vào danh sách kiểm soát xuất khẩu. Đây sẽ là một đòn giáng mạnh vào COMAC, nhà sản xuất Trung Quốc, vì hầu hết mọi hệ thống giúp C919 bay đều đến từ các nhà cung cấp Mỹ hoặc Châu Âu.

Ngoài các lĩnh vực riêng lẻ, áp lực của Mỹ đang gián tiếp làm suy yếu nền kinh tế Trung Quốc. Việc xem Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh chiến lược đã khiến giới lãnh đạo ở Bắc Kinh nhấn mạnh đến an ninh quốc gia nhiều hơn so với trước đây. Việc Bắc Kinh tập trung quá mức vào khả năng tự chủ về công nghệ có nghĩa là đầu tư quá mức vào các lĩnh vực ưu tiên cao, tạo ra tình trạng cung vượt cầu, gây tổn hại đến lợi nhuận của nhiều công ty Trung Quốc, và gây căng thẳng với các đối tác thương mại. Sự bất ổn theo sau là không mấy dễ chịu đối với các doanh nhân tư nhân và nhiều hộ gia đình Trung Quốc, góp phần làm giảm đầu tư và tiêu dùng. Bắc Kinh đáng bị đổ lỗi vì tình trạng kinh tế chậm lại, nhưng ở một mức độ nào đó, các chính sách của họ là phản ứng trước áp lực ngày càng tăng của phương Tây.

Nhiều nhà kinh tế Trung Quốc lo lắng về định hướng dân tộc chủ nghĩa trong chính sách kinh tế của đất nước họ và hoài nghi liệu tự lực cánh sinh có thực sự hiệu quả hay không. Họ tin rằng cần phải quay lại cách tiếp cận thân thiện hơn với thị trường. Một số người đã công khai bày tỏ quan ngại của mình, nhưng mối nguy hiểm đối với sự nghiệp của họ là có thật, vì vậy hầu hết đều chọn cách giữ im lặng.

HẬU QUẢ KHÔNG MONG MUỐN

Dù các hạn chế của phương Tây có gây thiệt hại, nhưng các biện pháp kiểm soát chặt chẽ hơn cũng thúc đẩy những tiến bộ công nghệ của Trung Quốc mà đáng lẽ đã không xảy ra. Gần đây, khi tôi đặt câu hỏi liệu các hạn chế của Mỹ có vô tình khuyến khích các nỗ lực công nghệ của Trung Quốc hay không, một quan chức Mỹ tham gia vào các cuộc thảo luận chính sách này đã phản pháo, “Dù sao thì họ cũng sẽ làm tất cả những điều này mà!” Câu trả lời là “không” – dứt khoát là không.

Kể từ khi Chiến tranh Thuốc phiện kết thúc vào năm 1842, Trung Quốc đã biến tự lực cánh sinh thành mục tiêu chiến lược. Nhưng các biện pháp gần đây do Mỹ dẫn đầu đã khiến Bắc Kinh thúc đẩy mạnh mẽ sứ mệnh này. Mục tiêu cốt lõi của kế hoạch “Sản xuất tại Trung Quốc 2025” (Made in China 2025), được công bố vào năm 2015, là nâng cao vị thế nổi bật của các sản phẩm công nghệ Trung Quốc trên thị trường toàn cầu. Mãi đến khi Washington bắt đầu thể hiện sức mạnh thì mục tiêu của Bắc Kinh mới chuyển sang bản địa hóa chuỗi cung ứng của mình từ đầu đến cuối, đặc biệt là trong các công nghệ chiến lược như chất bán dẫn, viễn thông, và trí tuệ nhân tạo. Trong 5 năm qua, Trung Quốc đã đầu tư nhiều nguồn lực vào các lĩnh vực tiên tiến nhất về thiết bị và công cụ bán dẫn, và Bắc Kinh cũng đã cố gắng phát triển các giải pháp công nghệ cao gần như hoàn toàn dựa trên các thành phần của Trung Quốc trong nỗ lực “Xóa A” – tức là loại bỏ công nghệ của Mỹ (America) khỏi chuỗi cung ứng của họ.

Xung đột công nghệ Mỹ-Trung, từng là mối bận tâm của giới chức Trung Quốc, giờ đã trở thành một phần không thể thiếu trong chiến lược kinh doanh của cả các công ty nhà nước lẫn tư nhân. Cho dù là vì lý do lòng trung thành với đất nước hay tham vọng thương mại, các công ty và tổ chức nghiên cứu Trung Quốc đã hướng tầm nhìn ra xa hơn, mở rộng đầu tư và R&D ra ngoài biên giới của họ, đến tận Đông Nam Á, Châu Âu, và Mỹ Latinh.

Trớ trêu thay, chính những biện pháp nhằm hạn chế tiến bộ công nghệ của Trung Quốc, lại góp phần thúc đẩy tiến bộ của nước này. Trung Quốc đã chứng kiến sự cải thiện trên nhiều lĩnh vực, về mặt nghiên cứu và phát triển, sản lượng sản xuất, và hàm lượng nội địa cao hơn trong xuất khẩu. Những chuyến thăm gần đây của tôi đến các công ty sản xuất pin xe điện và xe hơi Trung Quốc cho thấy các công ty này có nhận thức rõ ràng về bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, sở hữu năng lực mạnh mẽ trong đổi mới sản phẩm và quy trình, cũng như nguồn lực tài chính để tiến lên phía trước. Những đại diện hàng đầu của các công ty nước ngoài tại Trung Quốc tỏ ra khó chịu với các chính sách công nghiệp phân biệt đối xử của nước này, nhưng họ cũng liên tục nhấn mạnh rằng thách thức chính của họ là một nhóm ngày càng đông đảo các đối thủ Trung Quốc có năng lực cạnh tranh cao.

Các công ty Trung Quốc vẫn còn kém xa so với đối thủ cạnh tranh trong ngành bán dẫn, nhưng họ đang dần xây dựng một hệ sinh thái và chuỗi cung ứng trong nước. Họ đang tích trữ thiết bị quang khắc của nước ngoài và đạt được tiến bộ gia tăng với các nhà sản xuất thiết bị và phần mềm trong nước. Các công ty trong nước dường như đang làm theo chỉ dẫn của Bắc Kinh về tăng cường sử dụng chip trong nước. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đang khám phá những con đường mới để phát triển vật liệu, kiến trúc chip, và phương pháp tính toán có khả năng cho phép các nhà sản xuất chất bán dẫn của đất nước họ vượt qua các đối thủ nước ngoài theo cách tương tự như cách các nhà sản xuất xe điện Trung Quốc đã vượt qua sự thống trị của phương Tây trong lĩnh vực động cơ đốt trong. Khi tôi hỏi các giám đốc điều hành công nghệ AI của Trung Quốc: công ty Trung Quốc nào có nhiều khả năng thành công nhất trong lĩnh vực bán dẫn và AI, họ thường nhắc đến Huawei, một công ty đã bị đánh gục bởi các lệnh trừng phạt của Mỹ, nhưng vẫn không sụp đổ hoàn toàn. Hoạt động kinh doanh điện thoại thông minh của công ty này bị thiệt hại lớn, nhưng Huawei hiện đã sở hữu một hệ điều hành hoàn toàn độc lập, Harmony, chạy trên các thiết bị của mình.

Trung Quốc cũng đang vượt mặt Mỹ và phần còn lại của thế giới về công nghệ sạch. Vụ cá cược mạo hiểm vào xe điện của họ đã được đền đáp, với kết quả ấn tượng trong chế biến nguyên liệu thô, pin, tin học viễn thông (telematics), mẫu xe, và cơ sở hạ tầng sạc. Điều tương tự cũng đúng đối với năng lượng mặt trời, gió, thủy điện, và hạt nhân. Gần đây nhất, các công ty Trung Quốc đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc phát triển xe tự hành và cơ sở hạ tầng liên quan. Trung Quốc cũng là nguồn cung của ngày càng nhiều các loại thuốc cải tiến đạt đến giai đoạn thử nghiệm cuối cùng và có thể thâm nhập vào thị trường toàn cầu. Ngay cả khi các công ty đa quốc gia phương Tây đang đa dạng hóa khỏi Trung Quốc, một số nhà đầu tư mới lớn nhất ở Đông Nam Á, Châu Âu, và Châu Mỹ Latinh là các công ty Trung Quốc. Các hạn chế về công nghệ nhằm từ chối cho họ tiếp cận công nghệ phương Tây đang khiến họ toàn cầu hóa và xây dựng các mạng lưới xuyên quốc gia rộng lớn nhanh hơn so với bình thường.

PHẢN TÁC DỤNG

Các nhà hoạch định chính sách Mỹ phải cân nhắc xem các biện pháp an ninh kinh tế của mình đã làm giảm tốc và tăng tốc động lực công nghệ của Trung Quốc như thế nào. Ngoài ra, họ phải đánh giá cách các biện pháp này định hình quỹ đạo công nghệ của chính nước Mỹ – nơi cũng ghi nhận kết quả trái chiều.

Các văn bản luật chính, chẳng hạn như Đạo luật CHIPS và Khoa học và Đạo luật Giảm lạm phát, đã dành ra khoản ngân sách hơn 600 tỷ đô la cho khoa học cơ bản, ngành công nghiệp bán dẫn, công nghệ sạch, và các khoản đầu tư khác. Các biện pháp như vậy cũng nhằm mục đích huy động vốn tư nhân và đầu tư nước ngoài, và thực sự đã có sự gia tăng đầu tư vào các nhà máy sản xuất chất bán dẫn, pin xe điện, và các công nghệ khác.

Nhưng Washington cũng đã tạo ra những hạn chế đối với sự đổi mới của Mỹ mà cho đến nay vẫn lớn hơn lợi ích thu được từ các khoản đầu tư. Kiểm soát xuất khẩu đã làm giảm cơ hội kinh doanh cho các công ty bán dẫn của Mỹ, và doanh thu ít hơn có nghĩa là ít đầu tư vào R&D hơn và ít đổi mới hơn. Những biện pháp hạn chế cụ thể, cùng với tác động do căng thẳng địa chính trị gia tăng, đã làm giảm cơ hội và thu nhập cho các công ty Mỹ.

Bộ Tư pháp Mỹ cũng đã áp đặt các hạn chế đối với hợp tác học thuật với Trung Quốc, khiến năng suất của các học giả khoa học và công nghệ Mỹ giảm xuống. Một tỷ lệ lớn các nhà khoa học AI tại Mỹ đến từ Trung Quốc, do đó, sự suy giảm về số lượng của họ có nghĩa là sự đổi mới ở Mỹ sẽ giảm xuống, trong khi các nước khác, bao gồm cả Trung Quốc, sẽ có cơ hội tiến lên. Washington cũng đã áp đặt các hạn chế đối với sinh viên Trung Quốc theo đuổi các bằng cấp sau đại học về khoa học và công nghệ tại Mỹ, tước đi của các trường đại học Mỹ nhiều sinh viên tài năng.

Khi chính phủ Trung Quốc thúc đẩy các giải pháp bản địa, các công ty Trung Quốc cũng cố gắng loại bỏ công nghệ Mỹ khỏi các sản phẩm và hệ sinh thái của họ. Ngoài ra, có dấu hiệu cho thấy các quốc gia khác, vì lo ngại về thuế quan cao và các hạn chế khác, cũng đang tránh xa công nghệ Mỹ.

Thuế quan cao hơn đối với xe điện Trung Quốc sẽ bảo vệ các nhà sản xuất xe hơi Mỹ khỏi hàng nhập khẩu có mức giá không công bằng, và lệnh cấm các xe kết nối và tự hành của Trung Quốc sẽ làm giảm rủi ro về bảo mật dữ liệu của người tiêu dùng Mỹ. Tuy nhiên, sự bảo vệ như vậy nghĩa là sẽ có ít mẫu xe điện của Mỹ hơn, mức giá tiếp tục cao, quá trình chuyển đổi năng lượng chậm hơn trong giao thông vận tải, và các công ty Mỹ kém cạnh tranh hơn trên trường quốc tế.

Chính sách công nghiệp có thể nuôi dưỡng một số ngành công nghiệp non trẻ vốn sẽ không thể phát triển nếu không được hỗ trợ, nhưng cũng có khả năng Washington sẽ chi tiêu hoang phí vào các dự án vô ích. Việc xây dựng các nhà máy chế tạo chất bán dẫn mới trị giá hàng tỷ đô la trên đất Mỹ, một phần bằng chi phí của người nộp thuế Mỹ, là điều hợp lý. Nhưng xét đến các khoản đầu tư do nhà nước hậu thuẫn đồng thời vào các nhà máy chế tạo ở Brazil, Trung Quốc, Liên minh châu Âu, Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan, rất có khả năng sẽ xảy ra tình trạng dư thừa công suất toàn cầu đáng kể trong thập kỷ tới. Điều này có nghĩa là một số khoản đầu tư hiện nay sẽ không bền vững, dẫn đến hàng tồn kho không bán được, các công ty hoạt động kém hiệu quả, và mất việc làm.

Nhiều khả năng, chí ít là trong một số lĩnh vực, Mỹ và các đồng minh của mình đang dần chia sẻ, hoặc thậm chí nhường lại, quyền lãnh đạo cho các đối tác Trung Quốc, được đo lường không phải bằng thành tích kỹ thuật của bất kỳ công nghệ riêng lẻ nào, mà bằng sự thống trị của các hệ sinh thái và sự phổ biến các sản phẩm của họ. Dù sự nổi lên của Trung Quốc như một cường quốc khoa học và công nghệ không chỉ đơn thuần là kết quả của việc đáp trả áp lực từ phương Tây, nhưng căng thẳng có thể đã đẩy nhanh tiến trình của nước này. Khi các công ty Trung Quốc mở rộng phạm vi hoạt động, công nghệ của Mỹ sẽ ít cần thiết hơn ở một số nơi trên thế giới.

CON ĐƯỜNG TRUNG GIAN

“Giảm rủi ro” (De-risking) – tức giảm thiểu các lỗ hổng mà Mỹ và các đồng minh phải đối mặt do rò rỉ công nghệ sang Trung Quốc, sự phụ thuộc quá mức vào chuỗi cung ứng của Trung Quốc, dữ liệu không an toàn và cơ sở hạ tầng quan trọng – đã mang lại một số cải thiện về an ninh kinh tế cho Mỹ, nhưng cũng dẫn đến những hậu quả không mong muốn đáng kể. Và nếu chính quyền Trump thực hiện các bước đi thậm chí còn quyết liệt hơn để phân tách nền kinh tế Mỹ và Trung Quốc, thì những bất lợi về kinh tế và an ninh quốc gia sẽ còn rõ rệt hơn nữa.

Washington nên thực hiện các bước để đảm bảo rằng Mỹ sẽ tiếp tục đạt được những tiến bộ đột phá trong khoa học và công nghệ. Chính quyền Trump sắp tới và Quốc hội Mỹ cần phải nhận ra rằng có những sự đánh đổi tiềm tàng giữa các mục tiêu thịnh vượng kinh tế, chẳng hạn như đổi mới và giàu có hơn, và các mục tiêu an ninh kinh tế, chẳng hạn như khả năng phục hồi cao hơn và bảo vệ chống lại rò rỉ công nghệ. Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ phải đặt ra các mục tiêu có thể đo lường được, tiến hành phân tích chi phí-lợi ích của các lựa chọn và kịch bản chính sách khác nhau, và đánh giá cẩn thận kết quả thực tế của các chính sách khác nhau.

Washington cần đặt ra các ưu tiên rõ ràng, xác định các mối đe dọa cấp bách nhất cần được phản ứng. Nếu không, Mỹ sẽ bị kéo vào một vòng xoáy luẩn quẩn, hoặc đáng lo ngại hơn, là sẽ cố gắng chặn mọi mối quan hệ thương mại với Trung Quốc. Để giúp Mỹ ngăn rò rỉ công nghệ sang Trung Quốc, cách tiếp cận bền vững duy nhất là phải hợp tác với các đồng minh và các quốc gia khác để Mỹ không bị Trung Quốc đánh bại và mất đi vị thế dẫn đầu về công nghệ ở phần còn lại của thế giới. Nếu chính quyền Trump theo đuổi việc phân tách sâu rộng khỏi Trung Quốc, kết quả rất có thể sẽ là một nước Mỹ bị cô lập, nghèo hơn và yếu hơn.

Cũng sẽ không khôn ngoan nếu chính quyền Trump bỏ qua các thể chế toàn cầu, chẳng hạn như Tổ chức Thương mại Thế giới, vì làm vậy sẽ làm tăng đáng kể khả năng xảy ra xung đột không giới hạn. Thay vào đó, Washington nên tăng cường hợp tác đa phương để thiết lập các quy tắc mới cho hoạt động kinh tế toàn cầu nhằm tránh một cuộc chạy đua xuống đáy. Trong một số trường hợp, Mỹ có thể cần thực hiện các bước đơn phương để duy trì ưu thế công nghệ tương đối của mình, nhưng các biện pháp an ninh kinh tế quá mức sẽ có nghĩa là ít đổi mới hơn, tăng trưởng kinh tế chậm hơn, lợi nhuận giảm và ít việc làm. Với sự kết hợp của các chính sách trong nước khôn ngoan, hợp tác với các đồng minh, và đầu tư vào các thể chế quốc tế, Mỹ có thể đạt được cả sự thịnh vượng và an ninh.

Scott Kennedy là Cố vấn Cấp cao và Chủ tịch Hội đồng Nghiên cứu về Kinh doanh và Kinh tế Trung Quốc tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế.

Related posts