Viễn Trình

Huế từ vạn cổ chí kim là vùng đất của mưa, lũ và lụt. Bản thân tôi đã trải qua hai trận lụt lớn, trận lớn nhất là vào năm 1979, nước ngập ngang cổ mấy ngày liền. Cả nhà phải chồng mấy cái giường lên nhau để có chỗ nấu ăn tránh nước… Ban ngày, tôi và ông anh lội nước ra bờ sông Hương vớt củi cây rừng theo dòng nước lũ trôi về. Người dân dùng dây thừng buộc vào một cái móc sắt lớn, đôi ra giữa dòng móc cây kéo vào… Sông Hương cuồn cuộn chảy, màu nước đục ngầu mang theo đất phù sa, không như ngày thường sông Hương nước chảy lặng lờ trong thấy đáy… Thuở đó, có lụt là mừng vì được vô tư lội nước, nghịch nước với lũ bạn cùng xóm. Mỗi lần có lụt là ba tôi chặt cả chục cây chuối, lấy thân kết lại thành bè để di chuyển trong nhà, trong xóm hỏi han, giúp đỡ nhau… Nhớ được ngồi trên cái bè chuối chèo đi trong mưa khắp xóm khắp làng, vui vô cùng. Ba tôi căn dặn rất kỹ là không được chèo ra đường lớn, nước chảy xiết nguy hiểm. Thật ra, ổng khỏi cần dặn, thấy nước ngoài đường lớn chảy như sông là tôi teo rồi!
Thời sau 1975, kinh tế khó khăn, thức ăn ngày thường đã hiếm, mùa lụt lại càng hiếm hơn. Thời đó, tôi lại đang ở vào cái tuổi dậy thì, mới lớn, thèm ăn nên chèo bè chuối một lúc là đói lã, đói lơi… Huế khi ấy có rất nhiều hồ và cả đồng ruộng sát cạnh trung tâm thành phố. Các hồ này rau muống mọc xanh um, cung cấp rau xanh và cả cá cho người dân thành phố. Nhà tôi cũng nằm sát bên cái hồ nhỏ, nơi cung cấp nguồn thực phẩm vô giá cho nhiều gia đình sống quanh hồ, nhiều nhất là rau muống, môn nước và cả cá. Tôi thời đó còn là “chuyên gia” bắt cá bằng cách châm điện, mà người Huế hay gọi là rà điện hay rà cá… Giờ nghĩ lại thấy sao mà ghê quá, nguy hiểm quá, có lẽ vì ngu và vì nghèo, kiểu điếc không sợ súng… Mùa lụt, rau muống ngập nước và mọc rất nhanh như thể muốn tranh đấu vươn mình lên khỏi mặt nước. Ông anh tôi và tôi chèo bè chuối ra mặt hồ, dùng cái lưỡi liềm thọc sâu xuống nước cắt đại một mớ đem về cho mấy bà chị luộc, chiên, xào đủ kiểu… Rau muống ngâm nước lụt non mềm xèo, chắm mắm nêm, chao ôi ngon chi lạ!
Sau cơn mưa trời lại sáng… Lụt ra đi để lại một thành phố ngập bùn và rác rưởi, nhiều nhất là cành lá cây trên rừng trôi về. Nước rút ra đến đâu là cả nhà tranh thủ dùng thau múc nước rửa sạch sẽ trần nhà, vách nhà, sàn nhà… rồi cứ thế dọn ra tới sân, tới con hẻm lầy lội, cho đến cả tuần sau vẫn sình lầy… Ấy thế mà sao chẳng thấy ai kêu ca, than thở gì… Hình như lũ lụt đã ngấm vào nhiễm sắc thể DNA của dân Huế, họ xem lũ lụt là chuyện thường tình thế thôi, nó đi rồi nó lại về, nói làm chi cho mệt… Trái tim người Huế có lẽ đã chai đá qua hàng bao thế kỷ ngâm nước lụt, chống chọi với thiên tai và cả nhân tai chăng!
Sau này, khi xa Huế làm kẻ lưu vong, Huế trong tôi chỉ còn là ký ức, là nỗi nhớ không tên… Mỗi lần nghe tin Huế có lụt lớn là ký ức lại dửng dưng trở về rồi lại ra đi, bồi thêm một lớp phù sa thương nhớ trong lòng… Nước Úc bao la này cũng lụt lội liên miên. Nơi tôi ở, cách đây mấy năm, lũ cũng từ thượng nguồn theo sông tràn về, gây lụt lội một vùng rộng lớn. Nhà tôi may mắn nằm chỗ cao nên không hề hấn gì, nhưng các nhà hàng xóm thì thê thảm… Nước rút, tôi lội bộ một vòng xem xét mới biết sự thiệt hại kinh khủng của lũ lụt. Cũng nhờ trận lụt này mà tôi mới biết là mình có một gia đình hàng xóm là phụ huynh của cô học trò cũ, hai thập niên trước là học trò lớp tiếng Việt cuối tuần của tôi tại một trung tâm Công giáo… Thầy trò nhận ra nhau ngay cổng nhà khi em đang mang đồ đạc hư hại trong nhà ra bỏ trước cổng cho xe đến chở đi… Thế là sau vài câu thăm hỏi xôn xao, vui mừng, tôi xắn tay áo nhập cuộc cùng em và cả gia đình ba thế hệ lớn bé dọn dẹp… Nhớ là bà mẹ của cô học trò đưa tôi vào trong nhà ngập bùn và bàn ghế ngổn ngang, cái đứng cái nằm, kể cho tôi nghe chuyện tối qua nước dâng lẹ quá, chạy không kịp… Bà rưng rưng nước mắt, chỉ tay vào cái tượng Đức Mẹ Maria khá lớn đặt trên cái kệ trong góc phòng khách và nói đó là cái duy nhất không bị nước cuốn ngã! Bà cúi đầu lâm râm vài câu kinh, làm dấu thánh giá trước khi tiếp tục dọn dẹp… Sau trận lụt này, người dân phản ánh gay gắt, chính phủ liền lập ra một ủy ban điều tra nguyên nhân và đang thực hiện một dự án lớn để tránh lụt tái diễn…
Huế nằm dưới chân dãy núi Trường Sơn như một lá chắn cản không khí ẩm từ biển Đông thổi vào, khí ẩm gặp lạnh đọng lại thành mưa… Thời trước, Huế không có đập thủy điện nên lụt do mưa gây ra là chính. Thời nay, Huế có bốn đập thủy điện ở thượng nguồn, và lũ lụt một phần lớn là do bốn con đập thủy điện này xả lũ để cứu đập khỏi bị vỡ… Hiện tượng đô thị hóa, mở rộng thành phố, biến những ao hồ, cánh đồng trũng thành khu dân cư cũng là một nguyên nhân khác. Xưa, khi có mưa lũ, các cánh đồng này có chức năng chứa nước và điều hòa mực nước… Giờ thì nhà và nước, nước và nhà, nhà nước và dân chúng nhìn nhau xa lạ, tưởng như một mà lại hai!
Ở các nước văn minh, tân tiến, người ta xây các hầm ngầm khổng lồ dưới đất để chứa nước mưa lũ… Việt Nam thì chắc còn lâu mới có vậy, nên bây chừ cứ tiếp tục cắn răng mà chịu đựng, mà hy vọng vậy… Ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác như đường cao tốc, khi lũ về nó biến thành những con đê kiên cố ngăn nước thoát nhanh ra biển, rồi nạn phá rừng, v.v… Nói sao cho cùng… Người mình biết hết nguyên nhân gây bệnh lũ lụt, nhưng trị được bệnh hay không là vấn đề của trí tuệ, của ý thức, của ý chí, của sự trong sạch và của sự lãnh đạo công minh.
Vài dòng thăm Huế bằng nước mưa và cả nước mắt. Nước rồi sẽ rút thôi, còn chăng là những kỷ niệm, ưu tư chồng chất lên nhau, kết dính bằng bùn đất phù sa và trên hết là sự kiên cường, lì lợm của người dân xứ Huế.
Bên ni mưa nhớ bên nớ mưa Bên ni lụt cũng nhớ lụt bên tê Nhớ thương đã hóa mệnh đề Huế ơi! Đợi nhé, anh sẽ về thăm em!
Viễn Trình
Melbourne, Úc Châu – 28.10.2025
