Trân Văn
11-12-2025

Bất kể những băn khoăn của công chúng cũng như phân tích thiệt hơn của các thức giả, Quốc Hội Việt Nam vẫn thông qua Dự Luật Sửa Đổi Luật Thuế Thu Nhập Cá Nhân (TNCN).
Theo luật mới, nếu cá nhân hoặc các gia đình có sản xuất/kinh doanh và thu được từ 500 triệu đồng/năm trở lên (doanh thu) thì phải nộp thuế. Nếu doanh thu nằm trong khoảng từ 500 triệu đến ba tỷ đồng/năm thì thuế suất là 15%, tương tự như thuế suất của thuế thu nhập doanh nghiệp. Cũng theo Luật Thuế TNCN mới, những cá nhân chịu thuế sẽ được hưởng mức giảm trừ gia cảnh là 15.5 triệu đồng/tháng. Nếu có người phụ thuộc thì được giảm trừ thêm 6.2 triệu đồng/người.
Luật Thuế TNCN mới có hợp lý và hợp tình không? Xin mời xem qua ý kiến của một số người am tường thời cuộc. Đầu tiên là những ý kiến về việc bãi bỏ thuế khoán (cơ quan thuế sẽ ước tính doanh thu và ấn định một mức cụ thể cho những cá nhân hoặc gia đình có sản xuất/kinh doanh nhưng ở quy mô rất nhỏ) và buộc các cá nhân hoặc gia đình nằm trong diện này phải nộp thuế với thuế suất ngang với thuế thu nhập doanh nghiệp. Ông Thái Hưng Nguyễn chỉ trích ý tưởng buộc phải nộp thuế nếu doanh thu 200 triệu đồng/năm vì: Đó là đó là đường biên mỏng manh giữa quyền mưu sinh tối thiểu và bị coi là đối tượng chịu thuế.
Thái Hưng Nguyễn lưu ý: Mỗi năm kiếm được 200 triệu tức là mỗi tháng kiếm được khoảng 16 triệu, trung bình khoảng 500,000 đồng/ngày. Mức đó là doanh thu của một quán xôi mỗi sáng bán được vài chục hộp, một xe phở loại khiêm tốn, một sạp hàng nhỏ ở chợ dân sinh. Đó là những người không nhận lương từ công quỹ, không làm việc trong phòng lạnh, không có trợ lý, không có lương tháng 13, chỉ có tài sản duy nhất là sức lực của chính họ. Vậy mà họ bị kéo vào diện phải kê khai, nộp thuế. Câu hỏi đầu tiên cần đặt ra là: Chúng ta muốn thu cả thuế đối với nồi cơm của người lao động nghèo?
Đem lối tính thuế đó so với những người có việc làm mà công việc được “định danh,” Thái Hưng Nguyễn chỉ ra một khía cạnh thiếu công bằng khác: Cùng là kiếm sống nhưng cách đối xử của hệ thống thuế với hai nhóm hoàn toàn khác. Cá nhân hoặc gia đình kiếm sống theo kiểu “lấy công làm lời” phải nộp thuế trên doanh thu. Các loại chi phí có thể thấy (tiền thuê mặt bằng, điện, nước, sức lực của đương sự và người thân,…) sẽ không được thừa nhận đúng mức trong khi người làm công ăn lương thì được hưởng giảm trừ gia cảnh cho cả bản thân lẫn người phụ thuộc vì nhà nước thừa nhận, thu nhập dưới mức nào đó thì khó sống nên không buộc nộp thuế.
Thái Hưng Nguyễn chỉ là một trong số nhiều người chỉ ra sự bất cập của lối tính thuế theo Luật TNCN mới đối với giới mưu sinh bằng cách “lấy công làm lời.” Phản ứng của đám đông đang oằn lưng gánh thuế đã khiến quốc hội phải điều chỉnh bằng cách nâng mức doanh thu làm căn cứ tính thuế đối với giới này từ 200 triệu đồng/năm lên 500 triệu đồng/năm, song với tình trạng lạm phát như đã biết, bất công vẫn còn nguyên, thuế vẫn là gánh rất nặng đối với hàng chục triệu cá nhân, gia đỉnh. Gánh đó cũng không hề nhẹ đối với giới làm công ăn lương!
Ví dụ, ông Phạm Thế Anh chỉ ra những bất cập mà Luật Thuế TNCN đặt lên vai hơn 50 triệu người làm công ăn lương: Mức giảm trừ gia cảnh được nêu trong luật lạc hậu bởi không bù đắp được mức gia tăng của chi phí sinh hoạt và tương lai sẽ lạc hậu hơn vì chi phí sinh hoạt vẫn tăng đều đặn mỗi tháng, mỗi năm, nhất là trong bối cảnh chính phủ thúc đẩy tín dụng và tiền tệ để đạt mục tiêu tăng trưởng hai con số. CPI (chỉ số giá tiêu dùng) Tháng Mười Một tăng 0.45% so với Tháng Mười nhưng gần như ai cũng thấy không đúng thực tế. Ai tin rằng Tháng Mười, bạn chi một triệu cho sinh hoạt, CPI tăng 0.45% nghĩa là Tháng Mười Một bạn chỉ cần phải chi thêm 4,500 đồng là sinh hoạt sẽ như Tháng Mười?
Theo Phạm Thế Anh, đặt định mức giảm trừ gia cảnh là để bảo đảm người lao động có thể duy trì mức sống cơ bản, đủ khả năng chi dùng cho những nhu cầu thiết yếu. Tuy nhiên nhiều năm nay mức giảm trừ gia cảnh bất động, bất chấp chi phí sinh hoạt càng ngày càng cao và ngay cả khi sửa Luật Thuế TNCN, mức giảm trừ gia cảnh mới không chỉ không theo kịp tốc độ tăng CPI trong quá khứ mà còn tụt lại rất xa so với tốc độ tăng giá của những mặt hàng thiết yếu. Ngoài mức giảm trừ gia cảnh lạc hậu, biểu thuế TNCN từ tiền công và tiền lương cũng chưa hợp lý. Người làm công ăn lương tại Việt Nam phải nộp thuế thu nhập khi thu nhập của họ ở mức chẳng đáng gì so với các quốc gia trong khu vực.
Ví dụ, ở Singapore chỉ những người có thu nhập trên 2.4 tỷ đồng mới phải nộp 15% thuế TNCN. Ở Thái Lan, chỉ những người có thu nhập trên 400 triệu đồng mới phải nộp 15% thuế TNCN. Ở Indonesia, thuế suất 15% chỉ tính trên những người có thu nhập khoảng 200 triệu đồng. Còn ở Việt Nam, thu nhập 120 triệu đồng đã phải nộp 15% cho thuế TNCN. Tuy Philippines là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á buộc nộp 15% thuế TNCN khi mức thu nhập chỉ cao hơn Việt Nam một chút nhưng ở Philippines, những người có thu nhập 3.6 tỷ mới bị buộc phải nộp thuế TNCN ở mức cao nhất là 35%, còn tại Việt Nam, thu nhập chỉ cần 1/3 mức vừa kể của Philippines đã bị buộc nộp 35% cho thuế TNCN.
***
Thái Hưng Nguyễn khuyên Quốc Hội hãy tham khảo cách các quốc gia ASEAN thiết kế ngưỡng tính thuế với những cá nhân, gia đình sản xuất/kinh doanh nhỏ (ngưỡng doanh thu phải thực thi cơ chế thuế đầy đủ thường ở mức cao gấp nhiều lần GDP bình quân/người, thậm chí có quốc gia đặt định doanh thu từ hàng chục ngàn đến hàng trăm ngàn đô la/năm mới buộc phải thực thi chính sách thuế và kế toán như doanh nghiệp thực thụ) vì họ hiểu rằng, chút tiền thuế thu được từ những cơ sở siêu nhỏ không đủ bù chi phí tổ chức kiểm tra/thu thuế. Để những người kiếm sống bằng “buôn gánh bán bưng” sinh tồn, không bóp nghẹt tầng lớp dễ tổn thương nhất bằng thuế và thủ tục là giữ vùng đệm an sinh xã hội, khi người yếu thế có thể bươn chải sẽ giảm gánh nặng trợ cấp.
Phạm Thế Anh khuyến cáo: Ba thứ đang làm người lao động bị bỏ lại trong quá trình tăng trưởng hiện nay là: Chi phí sinh hoạt thiết yếu tăng phi mã, gánh nặng thuế TNCN từ tiền công và tiền lương, mở rộng tín dụng/tiền tệ để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mà không có các chính sách thuế điều tiết thị trường bất động sản. Do vậy, quốc hội nên nâng mức giảm trừ gia cảnh lên cao hơn (chẳng hạn 25 triệu đồng/tháng đối với người phải nộp thuế, 10 triệu đồng/tháng đối với người phụ thuộc) và bỏ hẳn các mức thuế suất cao nhất hoặc nâng mức thu nhập tính thuế cho các mức thuế suất cao nhất bằng với các quốc gia trong khu vực.
***
Giống như trước nay, Quốc Hội Việt Nam không nghe, không nghĩ dân chúng mong gì. Trí lực, sức lực của hơn 480 đại biểu ở quốc hội tiếp tục hướng vào những chuyện như chính phủ đề nghị chi 1 triệu 230 ngàn tỷ đồng cho cái gọi là “Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số.”
Sau khi theo dõi diễn biến nghị trường, Hong Thai Hoang nhắc các đại biểu quốc hội chú ý: Đó là một con số khổng lồ, xấp xỉ một nửa GDP của Việt Nam, đó không chỉ là mồ hôi mà còn là tương lai của hàng trăm triệu người nhưng không hề có kế hoạch chi tiết về cách sử dụng số tiền ấy!
Với tư cách là một trong những người chịu tác động trực tiếp của “chương trình mục tiêu quốc gia” này, Hong Thai Hoang đề nghị cho biết, khoản 1 triệu 230 ngàn tỷ đồng sẽ lấy từ những nguồn nào, chi tiêu ra sao. Tại sao “chương trình mục tiêu quốc gia” vừa kể không cụ thể, không có lộ trình thực thi, không có cách thức thực hiện, sẽ dựa vào đâu để đạt mục tiêu “tăng thu nhập từ 2.5 lần đến… lần” và “giảm nghèo xuống dưới 10%.” Một triệu 230 ngàn tỷ đồng không phải chỉ là một con số, đó là tiền thuế, là tài nguyên quốc gia, Quốc Hội chỉ nên thông qua khi chính phủ công bố kế hoạch rõ ràng, không thể dùng tiền của dân vào những mục tiêu chung chung.
Khá năng Quốc Hội lắng nghe rất thấp. Tương tự, giới lãnh đạo hệ thống chính trị Việt Nam không xem chuyện phải thúc đầy để quốc hội trở thành nơi thật sự đại diện cho nguyện vọng, ý chí của toàn dân là quan trọng vì giống như các đại biểu Quốc Hội, họ đang bận tâm về một số khía cạnh khác.
Ví dụ ông Tô Lâm, tổng bí thư đảng CSVN, vừa chỉ đạo phải “nghiên cứu, bổ sung cơ cấu có đại biểu Quốc Hội là người khuyết tật.”
Chỉ đạo ấy có thể khiến nhiều người thắc mắc, tại sao không mở ra, gìn giữ sinh lộ cho những người khuyết tật bằng cách soạn thảo để Luật Thuế TNCN không nghiệt ngã với thành phần yếu thế nói chung và người khuyết tật nói riêng? Những thắc mắc kiểu đó là “chỉ thấy cây, không thấy rừng,” không thấy sự vi diệu của hai chữ “cơ cấu”! [kn]
