THÂN TRỌNG SƠN dịch và giới thiệu
Ông sinh năm 1885 tại Elbeuf, một thành phố nhỏ thuộc vùng Normandie, Tây Bắc nước Pháp. Sớm có năng khiếu văn chương từ nhỏ, cậu bé Émile Herzog lúc theo học trường trung học Corneille tại Rouen có may mắn được học với giáo sư Émile-Auguste Chartier, tức là triết gia Alain nổi tiếng. Chính vị giáo sư này đã phát hiện tài năng của học trò và hướng dẫn, khuyến khích cậu phát triển ngay từ phương pháp học tập ở lớp. Điều bất ngờ là thầy khuyên trò sau khi rời trường nên trở về làm việc trong xưởng dệt thảm của gia đình. Ông nghe lời thầy và trở về Elbeuf, tuy nhiên ông vẫn say mê chữ nghĩa nên trong phòng làm việc ông để sẵn nhiều tiểu thuyết của Balzac, ông chép lại nhiều trang của Stendhal để luyện viết văn, đồng thời tích cực học tiếng Anh.
Thế chiến lần thứ nhất xảy ra, ông nhập ngũ và được cử làm thông dịch viên và sĩ quan liên lạc tại một trung đoàn của quân đội hoàng gia Anh. Sự nghiệp văn chương bắt đầu từ thời gian này. Ông lấy bút danh André Maurois khi viết tác phẩm đầu tiên: “Sự im lặng của đại tá Bramble” (Les Silences du colonel Bramble) năm 1918, tác giả sớm nổi tiếng để ba năm sau viết tiếp cuốn “Những bài diễn văn của bác sĩ O’ Grady” (Les discours du Docteur O’ Grady). Ông sẽ ký bút danh này trên tất cả tác phẩm của mình, và điều thú vị là bút danh này trở thành tên chính thức của ông kể từ năm 1947 bằng một nghị định của Tổng thống Pháp. Ông được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp (Académie Française) năm 1938.
André Maurois để lại hơn 100 tác phẩm thuộc đủ mọi thể loại: Nhiều tiểu thuyết tâm lý (Bernard Quesnay, Climats – Mặc Đỗ dịch là Tâm cảnh -, Terre promise – Đất hứa – Les Roses de septembre – Những đóa hồng tháng chín -) có cuốn gần với truyện vừa và truyện ngắn, có khi có hơi hướng truyện giả tưởng (Le peseur d’âmes – Người cân linh hồn -, La machine à lire les pensées – Máy đọc tư tưởng – Có những tác phẩm nghiên cứu, khảo luận (Un art de vivre – Một nghệ thuật sống -, Sept visages de l’amour – Bảy khuôn mặt tình yêu – Au commencement était l’action – Khởi đầu là hành động…) Ông còn là nhà viết sử với các cuốn Histoire de l’Angleterre (Lịch sử nước Anh), Histoire des Etats-Unis (Lịch sử Hoa Kỳ), Histoire de France (Lịch sử nước Pháp). Ông nổi tiếng nhất với một loạt tác phẩm viết tiểu sử các văn nghệ sĩ (Shelley, Byron, Victor Hugo, George Sand, Balzac, Tourgueniev, Voltaire, Chateaubriand, Marcel Proust), các chính trị gia (Disraeli, Lyautey), và cả nhà khoa học (Alexandre Flemming)…
Độc giả Việt Nam đã biết đến Ông với bản dịch (của Nguyễn Hiến Lê) các tác phẩm “Thư gởi người đàn bà không quen biết” (Lettre à une inconnue) và nhất là “Thư ngỏ gửi tuổi đôi mươi” (Lettre ouverte à un jeune homme sur la conduite de la vie), là tác phẩm Ông viết ở tuổi 80, trong đó ông giải đáp mọi thắc mắc của thanh niên về nhiều vấn đề: quan niệm sống, tu dưỡng, hôn nhân, việc làm, viết văn, tiêu khiển, tình yêu, tín ngưỡng…
Ông cũng chính là người đã dịch bài thơ IF nổi tiếng của Rudyard Kipling ra tiếng Pháp với nhan đề Tu seras un homme, mon fils.
Étienne Carlut xuống xe taxi trước cửa chính của nghĩa trang Montparnasse. Anh ôm một bó hoa cúc rực cháy sắc nồng mùa thu, từ đỏ sẫm đến vàng nhạt. Khi anh đi ngang qua chỗ hai người gác cổng, một trong hai người chào anh. Vướng bó hoa, anh chỉ gật đầu đáp lại.
Sếp quen ông ta à?
À, quen sơ thôi. Ông ấy là giáo sư. Bà vợ vừa mất cuối tháng chín, an táng ở khu số bảy. Thứ năm nào ông cũng đến, ngày đó ông không có giờ dạy… Ông ta giải thích với tôi vậy… ngay ban đầu.
Goá vợ mà còn trẻ quá… Ông ấy sẽ không đến đây lâu đâu…
Ai mà biết… Không, không biết được. Điều đó cũng tuỳ người thôi.
Nếu họ đem chuyện đó hỏi người đàn ông có râu ngắn, mặc toàn đồ đen, vụng về với bó hoa cúc, khi thì ôm trong tay như ôm đứa bé, khi thì cầm ngoặt ra sau lưng, anh ta sẽ trả lời là anh sẽ đến đấy mỗi thứ năm cho đến lúc chết, cái chết mà anh mong sẽ đến sớm.
Lucile mất đi đột ngột như một tai hoạ khủng khiếp mà tâm trí anh không sao chấp nhận được. Hai người lấy nhau được năm năm và nàng đã làm thay đổi cuộc đời anh. Trước khi có nàng, anh là một người nghiêm nghị (hơi buồn tẻ, như nhận xét của nhiều phụ nữ), chỉ quan tâm đến công việc. Anh thích giảng dạy, chấm bài, chuẩn bị luận án tiến sĩ. Cuộc sống bên ngoài hầu như không tồn tại trong mắt anh.
Đột nhiên, tại một khách sạn miền núi, nơi anh đi nghỉ hè, anh đã gặp Lucile, mái tóc vàng óng, đôi mắt tím biếc, chiếc cổ thon, đôi vai tròn lẳng, một vẻ đẹp hiếm có đến nỗi trong suốt năm năm chung sống đó, anh vẫn khó tin là có thật. Ngay cả những lúc ôm vợ trong lòng, gần gũi nhau, khi nàng ngước nhìn anh khép nép ngoan chiều, anh vẫn tưởng như nàng là nhân vật huyền thoại hay cổ tích. Nàng gợi cho anh nhớ đến những nhân vật của Shakespeare hay Musset. Những khi liên tưởng như thế, anh lại tự trách mình là ngay cả trong tình yêu cũng tỏ ra là ông giáo cố chấp, một người thông thái rởm. Không, Lucile không phải là bản sao của những nhân vật tưởng tượng, mà là một người phụ nữ có nụ cười dịu dàng, nét mặt lanh lợi, thân hình mềm mại, tươi mát. Vốn đỏm dáng, nhiều lúc nàng trêu chọc anh và làm anh lo lắng. Anh chỉ còn nhớ đến vẻ quyến rũ không gì sánh được của nàng.
Mình đã mất đi nhiều hơn cái mình có, anh tự nhủ khi đi về phía ngôi mộ của nàng, nơi linh thiêng đối với anh.
Khu thứ ba phía nam, khu thứ hai phía tây. Những tuần đầu tiên anh cần tới những chỉ dẫn đó để tìm đường. Bây giờ, anh đi thẳng đến tấm đá cẩm thạch màu xám tro, trên có ghi đơn giản: Lucile Carlut, nhũ danh Auban (1901-1928). Có lúc anh muốn ghi dòng chữ la tinh: Conjugi, amicae (1) nhưng anh nghĩ là nàng sẽ không tán thành. Để tới nơi nàng yên nghỉ, anh đi ngang qua những huyệt mộ các gia đình quyền thế, những công trình xấu xí, cái thì xây kiểu gô tích, cái thì theo kiểu Ai cập, phô bày sự giàu có của tay trùm đồ sắt thép hay hàng tạp hoá. Anh yêu thích biết bao tấm bia đá trơn, không trang trí, là món quà cuối cùng anh tặng vợ. Cuối cùng ư? Không hẳn vậy, vì anh vẫn còn những đoá cúc kia, nàng vẫn thường chuộng màu sắc rực rỡ của loài hoa này. Lẽ nào nàng lại nằm dưới mộ này? Anh tưởng như đang nghe giọng nàng nói:
Anh lại mang hoa đến cho em đấy à? Thật đáng yêu quá!
Anh vẫn còn nhớ là anh đã không tin, đã phủ nhận dứt khoát khi bác sĩ nghe nhịp tim đập của Lucile và nói: “Xong rồi!” Lẽ nào nàng lại bỏ anh một mình? Lucile vẫn luôn ân cần, chu đáo và không bao giờ nản chí mà!
Anh đặt nghiêng bó hoa dưới dòng chữ trên tấm bia, và đứng đó, mặc niệm. Cứ mỗi tuần anh vẫn cố ôn lại những giai đoạn của quãng đời hạnh phúc: đính hôn, tuần trăng mật, những đêm dài ân ái, phút thân mật ngọt ngào mỗi lần anh ngồi vào bàn làm việc, ngước mắt nhìn lên và bắt gặp nụ cười kín đáo, chia sẻ của nàng, rồi những ngày xao xuyến chờ đợi đứa con ra đời. Hai người hoàn toàn hợp ý nhau, từ việc trang trí căn nhà đến những vở kịch mà họ muốn cùng xem chung. Nàng còn hiểu rõ anh đến mức có thể trả lời đúng cái câu mà anh chưa kịp nói ra. Vậy mà giờ đây anh chẳng còn vợ, chẳng có con.
Lucile tội nghiệp! Lời nói cuối cùng của em là để anh yên tâm. Rồi, giữa chừng…
Suốt mùa đông, anh trở lại vào các ngày thứ năm. Mỗi lần, anh mang đến một loại hoa khác nhau, bày tỏ trí tưởng tượng muốn làm vui lòng người đã khuất như trước đây đã từng làm đẹp lòng người sống. Dịp lễ Noel, anh nhớ lại niềm vui như trẻ nhỏ của Lucile khi nhìn thấy cây thông sáng rực với những món quà treo dưới cành cây, anh trang trí mộ vợ bằng những cành lá xanh, bằng cây ô rô (2), cây thạch thảo (3). Rồi, tuần qua tuần, ngày tháng cứ nối dài ra. Anh thấy trên những chiếc xe bán hoa những loại hoa mới. Một ngày tháng ba, anh mang đến những bông hoa violet và hoa báo xuân (4). Bầu trời trong xanh, khí trời ấm áp, ánh nắng đùa giỡn trên những tấm đá. Anh cảm thấy thoải mái, và ngay lúc đó lại tự trách mình.
Vẫn như mọi lần, anh bước vào nghĩa trang như đang mơ. “Em thích mùa xuân. Ngày đầu tiên có thể đi ra ngoài không mặc áo khoác, với vài bông hoa cài lên ve áo, em tỏ vẻ hân hoan. Anh sẽ không bao giờ được ngắm dáng đi thiên thần của em nữa rồi…” Bất chợt anh quay đầu lại. Một thiếu phụ bận đồ đen vừa bước vào và dừng lại trước một ngôi mộ, cách chỗ anh chừng mười mét. Chị ôm bó hoa và đặt lên mộ một cách duyên dáng. Sau đó, chị quỳ xuống trên nền mộ.
Cái mũ của chị che khuất một phần khuôn mặt. Étienne chờ đợi khoảnh khắc chị quay đầu lại. Khi chị đứng lên, anh thấy chị đang khóc. Nét mặt chị nghiêm trang, tinh khôi. Mái tóc đen che trùm vầng trán rộng. Chiếc áo khoác, kiểu dài bó sát người, làm nổi bật thân hình mảnh mai. Trước khi ra đi, chị không hề nhìn ra xung quanh. Chị đi xen giữa những ngôi mộ và những nhà mồ để ra lối cổng. Khi nghe tiếng bước chân chị trên đường sỏi, anh đến nhìn tấm bia mà hồi nãy chị quỳ phía trước. Antoine Constant – 1891-1928. Vậy là chị vừa mất chồng, chứ không phải cha, cũng không phải con trai. Rồi anh lại nghĩ: “Có thể là người tình”. Nhưng anh cũng không tin chắc.
Thứ năm sau, anh đến đúng vào giờ đó, mà không nghĩ là mình mong gặp lại người ấy. Chị không đến. Anh chờ lâu và buổi mặc niệm lần này buồn bã hơn thường lệ. Anh thấy xót xa. Cuộc sống của anh hoàn toàn trống trải. Anh không có bạn thân. Lucile và anh cố tình giữ cách biệt nghiêm ngặt với gia đình để họ không thể can thiệp vào cuộc sống của hai vợ chồng, bởi cả hai đã đủ cho nhau.
“Thật khác nhau xa, anh nghĩ, giữa những tối ấm cúng ngày trước và cuộc sống cô đơn hiện nay! Buồn biết mấy khi phải ăn tối vội vàng, chẳng thấy ngon miệng, rồi đến ngồi trên chiếc ghế bành, đọc mấy tờ báo ban chiều, cố tìm hứng thú trong trang sách mà không được, rồi chờ đợi hàng giờ giấc ngủ chẳng chịu đến cho.”
Anh say mê công việc khi có thể chia sẻ với vợ. Anh đọc cho chị nghe một câu, chờ đợi phản ứng của chị mà anh biết lúc nào cũng nhạy bén, thông minh. Rồi đến giờ hai người cùng về phòng ngủ. Mặc áo ngủ, tóc tai buông xoả, chị trông đáng yêu biết bao. Chẳng lẽ anh sẽ không bao giờ còn được hưởng niềm vui nồng nàn ấy nữa?
Không bao giờ nữa! Phải nói là “không bao giờ nữa” anh được vuốt ve âu yếm, bởi chỉ ý nghĩ tái hôn, thậm chí chỉ ve vãn một phụ nữ nào khác với anh đã là tội lỗi rồi. Làm sao anh có thể nhắc lại với người khác những lời mà anh chỉ dành cho chị? Làm sao anh có thể đưa một người nào khác vào trong căn nhà anh đã hoàn toàn dành để tưởng nhớ Lucile? Đồ đạc trong nhà chỗ nào cũng có ảnh chị. Trong tủ, quần áo của chị vẫn ở đúng vị trí chị đã treo. Bà Auban, mẹ vợ anh, từ dưới tỉnh lên, sau đám tang đã gợi ý anh mang đi cho hội từ thiện.
Đúng thế đấy… Con cũng chẳng dùng chúng làm gì, con ạ… Chúng chỉ làm con thêm buồn thôi.
Anh cảm thấy ý nghĩ đó tội lỗi và tệ hại.
Một bà già đi ngang qua gần anh, tay mang một bình sắt đầy nước, chắc là để tưới hoa. Một đám mây che khuất mặt trời. Étienne rùng mình, đưa mắt nhìn lần cuối tấm biển gắn trên đá cẩm thạch xám, rồi bước ra. Nhưng rồi, dù không cố ý, thay vì đi thẳng đến lối cổng chính, anh lại ngoặt vào phía trước ngôi mộ của Antoine Constant. Trên mộ có bó hoa diên vỹ (5) còn tươi. Người phụ nữ chưa quen biết ấy đã đến đây hôm trước, có thể là sáng nay.
Thêm hai ngày thứ năm nữa anh vẫn không gặp chị. Lần thứ ba, khi anh đến thì chị đã có đấy rồi. Étienne có cảm giác như chị liếc nhìn trộm bó hoa anh đang cầm. Hoa tu lip, màu đỏ và vàng. ” Không, chẳng có vẻ gì tang tóc”, anh nghĩ thầm. Có sao đâu… Em vẫn thích loại hoa này. Em vẫn thường nói: Phải đánh thức căn phòng khắc khổ này… Than ôi! Em mới chính là người anh muốn đánh thức, đôi má thơm tho của em, vầng trán ấm áp của em”. Rồi, đến lượt anh liếc nhìn người phụ nữ áo đen và chú ý xem chị mang hoa gì đến. Cũng như anh, chị chọn hoa màu sáng, nhưng là hoa cẩm chướng chứ không phải tu lip.
Sau hôm đó, thứ năm nào anh cũng gặp chị. Có hôm chị đến trước anh, có hôm đến sau, nhưng bao giờ cũng là thứ năm. “Có thể là vì mình” anh tự nhủ. Tuy thế, anh vẫn chờ chị đến với một sự xúc động mơ hồ. Cả hai người đều chăm chút chọn loại hoa và bây giờ quan sát mạnh dạn hơn, xem người kia mang đến cho người đã khuất loại hoa gì. Hầu như giữa hai người có sự ganh đua và người dưới mộ cũng thụ hưởng vì các bó hoa ngày càng đẹp hơn. Cả hai cùng mang hoa hồng đầu mùa đến, nhưng hoa của chị màu đỏ, còn của anh là hồng nhung. Rồi hai người đều mang đến những cành lay-ơn đủ sắc màu rực rỡ như pháo hoa.
Anh chờ cho chị đi khá xa rồi mới ra về, sợ làm chị bối rối khi thấy anh có vẻ như muốn đi theo hay muốn nói chuyện. Chị thì rõ ràng không muốn vì lần nào chị cũng bước vội và không ngoái nhìn lui.
Một ngày tháng năm, khi anh đang băng qua khu mộ cổ sang trọng để đi về phần mộ của Lucile, anh nghe tiếng ồn ào và thấy người gác cổng – mà anh đã quen – đang nắm cánh tay bà lão mà anh đã từng thấy mang bình nước. Bà lão cố rút tay ra. Người gác cổng muốn nhờ thiếu phụ áo đen làm chứng, và lên tiếng khi thấy anh:
Thưa ông, việc này cũng liên quan đến ông đấy!
Étienne tiến gần lại, tay vẫn đang ôm bó hoa:
Có chuyện gì thế?
Tôi bắt quả tang ả này lấy trộm hoa. Đúng vậy, thưa bà. Ả đã lấy hoa trên mộ chồng bà, và trên mộ bà nhà nữa, thưa ông… Tôi đã rình mấy tuần nay rồi, và lần này mới bắt tận tay, day tận mặt.
Thiếu phụ có vẻ bối rối.
Thôi, ông thả bà ta ra đi. Việc ấy có quan trọng gì với tôi đâu. Hoa cũng đã héo rồi, tôi đến thay hoa mới đây mà.
Héo ư? người gác cổng nói, – Không phải héo hết cả đâu. Ả đã khéo chọn, trong mỗi bó chỉ chọn lấy những hoa còn tươi. Đây này, bà thử đến ngôi mộ số 107, khu thứ tám mà xem… Ả đã cắm trong bình cả một bó hoa linh lan (6) mà chắc là không tốn bao lăm tiền mua. Hoa đó lấy từ khắp các mộ.
Thế thì có gì xấu? Thiếu phụ nói. Bà ta có lấy hoa đem bán đâu.
Tại sao bà làm như thế? Étienne nói với bà lão.
Anh nhìn bà lão kỹ hơn, mặt bà không có vẻ tầm thường. Bà lão cúi đầu.
Tại sao bà lại làm như vậy? Anh nhắc lại. Bà không có tiền mua hoa phải không? Phải vậy không?
Bà lão ngẩng đầu lên:
Đúng vậy, tôi không có tiền. Chuyện ấy thì đã làm sao? Thưa bà, bà sẽ làm gì nếu bà có đứa con trai nằm dưới mộ kia và ông chồng keo kiệt không đưa tiền để mua một nhánh linh lan hay một bó violet? Hả? Bà sẽ làm thế nào?
Tôi sẽ làm như bà thôi, thiếu phụ áo đen mạnh dạn trả lời.
Thôi được, người gác cổng nói, nhưng tôi còn nhiệm vụ của tôi chứ.
Ông bỏ mũ ra, buông tay thả bà lão, và phân bua với Étienne:
Thưa ông, ông thấy thế nào? Hẳn là ông đã từng ở trong quân đội?… Mệnh lệnh là mệnh lệnh… Tôi đâu có cứng rắn hơn người khác, nhưng công vụ, công vụ…
Cũng không ai kêu ca gì, Étienne nói. Bà đây và tôi, thứ năm nào chúng tôi cũng đến đây để thay hoa. Nếu như trong số hoa của tuần cũ có ai thấy có những cánh hoa còn tươi thì cũng tốt thôi.
Vâng, vâng…, người gác cổng nói. Nếu ông bà vui lòng, mọi người cũng đều vui lòng cả.
Rồi ông ta quay sang bà lão bị bắt tội:
Bà có thể đi được rồi đấy.
Étienne cho bà lão một ít tiền, và thiếu phụ áo đen cũng cho thêm chút ít. Rồi Étienne đến mặc niệm trước mộ Lucile như mọi lần. Nhưng lòng vẫn còn xáo động bởi chuyện vừa rồi, anh không thể tĩnh tâm như những lần trước. Những hình ảnh quen thuộc anh cố gợi lại đều thoát khỏi anh. Khi thiếu phụ áo đen ra về, anh cân nhắc rồi quyết định đi theo.
Cám ơn ông, chị nói. May sao hồi nãy ông đến kịp. Đàn ông lúc nào cũng có uy thế hơn.
Bà lão tội nghiệp! Bà và tôi có thể hơn ai hết thông cảm lòng mong muốn làm cái gì đó cho người thân yêu dù là nhỏ nhoi thôi.
Đúng như vậy… Vì người thân, mà cũng vì chính mình.
Để giữ cho họ sống mãi trong ta.
Chị ngạc nhiên nhìn anh, tỏ vẻ cám ơn.
Ông cũng có những cảm giác y hệt tôi… Hơn nữa, đã từ lâu tôi nhận thấy lòng tha thiết của ông khi ông chọn hoa… Ông yêu vợ lắm phải không, ông Carlut?
Bà biết tên tôi?
Một hôm, không có ông ở đây, tôi đã đọc… Tôi biết là bà nhà mất khi mới 27 tuổi… Thật kinh khủng.
Kinh khủng lắm! Cô ấy thật hoàn hảo. Xinh đẹp, dịu dàng, đầy trí tuệ.
Thế thì ông cũng giống tôi, tôi đã mất người chồng tốt nhất trên đời. Thật vậy, tôi chưa thấy có người phụ nữ nào được yêu thương nồng nàn như thế, được bảo bọc ân cần như thế… Hầu như là hơi quá… Antoine đã làm tất cả vì tôi và anh ấy mất đi khiến tôi thấy hoàn toàn hụt hẫng.
Ông nhà mất còn trẻ quá! Vâng, thú thật là vì chút tò mò… và thiện cảm nữa… tôi đã đọc dòng chữ trên bia… 1891-1928… Ông ấy vì sao mà mất vậy?
Tai nạn xe hơi… Người ta mang anh ấy về bất tỉnh nhân sự. Sáng hôm đó khi từ biệt tôi anh ấy vẫn tràn trề hạnh phúc… Anh ấy mới được thăng chức trưởng phòng.
Ông nhà là công chức?
Không… Một nhà máy hoá chất lớn. Mới 37 tuổi anh ấy đã là nhân vật thứ ba của xí nghiệp. Chẳng mấy chốc nữa mà thành người đứng đầu.
Ông bà có cháu nào chưa?
Ngay cả niềm an ủi đó tôi cũng không có được.
Họ đi đến cổng chính. Người gác cổng chào họ, vẻ hóm hỉnh.
Này, ông ta nói với người cộng sự khi hai người đi qua xa… Trông cũng được nhỉ… Biết đâu đấy!
Thứ năm sau, như một thoả ước đã định, hai người cùng đi chung đoạn đường sau khi viếng mộ. Étienne kể về cuộc đời của mình. Anh là giáo sư toán ở một trường trung học lớn tại Paris, anh cũng có viết lách. Một tờ tạp chí nhờ anh viết phê bình văn học.
Khi nhà tôi mất, tôi đã bắt đầu viết một vở kịch. Giờ tôi chẳng có can đảm để tiếp tục.
Ông nên viết tiếp, chị nói. Bà nhà cũng mong như vậy đấy.
Anh phấn khởi:
Ồ, vậy sao! Hẳn là thế. Cô ấy thường động viên tôi theo con đường này.
Bà Constant nói bà cũng thích kịch. Bà đã theo ngành văn chương khá chuyên sâu: hai bằng tú tài, một bằng cử nhân tiếng Anh.
Tốt quá đi chứ! Và sống giữa giới thương gia không làm bà nản sao?
Không đâu, chừng nào Antoine còn sống. Để anh ấy vui lòng, tôi tiếp chuyện bất cứ ai… Theo sở thích thì tôi mong gặp các nhà văn, nghệ sĩ, nhưng cùng với anh ấy…
Anh hỏi chị đã thăm đài kỷ niệm của Sainte- Beuve(7), của Baudelaire(8) trong nghĩa trang này chưa. Chị bảo không biết, anh tình nguyện đưa chị đi xem. Chị cho rằng những ngôi mộ đó xấu xí thôi.
Không đâu, anh nói. Chỉ là cách nhìn của từng thời đại.
Vậy là hai người đã cùng nhau đi dạo một đoạn đường dài, trò chuyện sôi nổi đến nỗi không nhìn thấy trời phủ mây đen và cũng không nghe tiếng gầm xa xa báo hiệu cơn dông sắp đến. Khi họ về đến cổng, mưa bắt đầu rơi nặng hạt.
Tôi sẽ đi taxi, chị nói. Có bến xe ở đằng kia.
Tôi cũng bắt chước bà. Chẳng phải là mưa rào đâu, cả một trận đại hồng thuỷ đấy.
Họ rảo bước, và thấy quần áo đều ướt sũng, nên vụt chạy. Nơi bến chỉ có một chiếc taxi.
Bà lên xe nhanh đi, anh nói.
Thế còn ông?
Tôi sẽ đợi. Chắc sẽ còn xe khác.
Đợi trong thời tiết thế này à? Không chắc có xe đâu. Tôi không thể để ông xuống dọc đường sao?
Bà về đâu?
Nhà tôi, đại lộ Mozart.
May quá! Tôi ở ngay gần đó, đường la Pompe. Tôi sẽ để bà xuống trước.
Hai người cứ nhường nhau, cuối cùng chị nhượng bộ và cho địa chỉ. Khi cả hai cùng ngồi trong taxi, họ có vẻ hơi thẹn thùng. Mỗi người cố lui về một góc và không ai nói gì. Anh nhớ lại một tối kia, anh đưa chân cô bạn đồng nghiệp ở trường về và Lucile bắt gặp. Nàng giận.
” Nếu em không nhìn thấy, liệu anh có kể cho em nghe không?
Anh trả lời: Kể chứ. Chị ta bị mệt và cần đến anh, anh không thể bỏ mặc chị ấy được… Vả lại, chị ấy hơn em đến hai mươi tuổi mà.
Điều ấy chứng minh được gì nào? Chị ấy trông vẫn còn được lắm.”
” Em sẽ nói gì đây”, anh thầm hỏi Lucile khi xe chạy ngang ga Montparnasse, ” em sẽ nói gì khi nhìn thấy anh ngồi trong xe với một phụ nữ trẻ đẹp… và còn sống.” rồi anh lại nghĩ tiếp,” anh tưởng như em đang ngồi với anh trong chiếc xe này, ngực em căng phồng chiếc áo đen… Anh cảm thấy thật xấu hổ khi mọi tình cảm như đang trỗi dậy nơi anh. Anh cần có em biết mấy!” Người thiếu phụ áo đen nhìn anh thông cảm và mơ màng.
Ông thật bất hạnh, chị nói. Chúng ta đều bất hạnh.
Bà sống một mình?
Vâng… Đúng hơn là có Amélie, bà giúp việc. Ồ, bà ấy tốt lắm. Trước đây bà nuôi chồng tôi. Bà làm hết mọi việc trong nhà… Còn ông thì sao?
Tôi cũng vậy, một mình. Sáng sáng bà giúp việc đến, và năm giờ chiều thì về, để lại cho tôi bữa ăn tối lạnh ngắt.
Anh nói chuyện khó nhọc, không thể bộc bạch những ý nghĩ thực sự cũng như mối xúc cảm đang trỗi dậy nơi anh bởi sự có mặt thật gần gũi của một thân thể phụ nữ. Mặt trời đã hiện ra trở lại, chiếu lấp lánh mái vòm vàng rực của điện Invalides (9).
Trời đẹp quá, anh nói. Bà có như tôi cảm thấy buồn tủi bởi vì cuộc sống vẫn đẹp vậy mà…
Chị nói, giọng tha thiết:
Tôi không nói nên lời được nhưng tôi cảm thấy điều đó.
Anh hỏi có phải tuần nào chị cũng đi taxi đến nghĩa trang không.
Vâng, vì còn bó hoa. Khi chồng tôi còn sống, chúng tôi có xe hơi nhưng chỉ anh ấy cầm lái.
Tôi cũng đi taxi, cũng vì lý do ấy… Những bông hoa…
Anh do dự một hồi rồi cất tiếng, giọng rụt rè, nhỏ nhẹ:
Có thể nào… Thật ra thì…bà có thấy kỳ quặc không, tôi với bà cùng đi một quãng đường, cùng một ngày, liệu chúng ta có thể đi chung taxi không? Tôi sẽ đến đón bà.
Ông tốt quá… Nhưng tôi không muốn để Amélie… Có trời mới biết bà ấy sẽ nghĩ gì khi thấy tôi cùng đi với ông.
Vậy thì ta làm ngược lại. Bà sẽ đi taxi và qua đón tôi. Tôi chờ sẵn trước nhà.
Có lẽ như vậy tốt hơn. Nhưng còn họ… ông nghĩ là hai người sẽ chấp thuận?
Sao lại không? Chúng ta cùng thực hiện nghĩa vụ về trìu mến và yêu thương.
Để tôi suy nghĩ thêm. Dẫu sao tôi cũng không thể để ông trả tiền xe đâu.
Chuyện ấy có gì khó đâu. Nếu bà muốn, chúng ta sẽ cùng trả.
Cứ để xem đã, chị nói. Đến nhà tôi đây rồi.
Chị cởi găng tay và đưa tay cho anh bắt, bàn tay với ngón dài trắng muốt, có đeo nhẫn.
Ngày thứ năm sau, mỗi người tự đi đến nghĩa trang, nhưng lúc ra về, không hẹn trước nhưng cả hai đều cùng đi đến bến xe và về chung xe taxi. Trên đường về chị nói: ” Tôi đã suy nghĩ về lời mời rất tử tế của ông. Tôi thấy có thể chấp thuận được. Đúng là thật vô lý nếu cứ mỗi tuần mình phải trả tiền hai xe. Vả lại có ông tôi thấy yên tâm hơn. Thứ năm tuần sau tôi sẽ đón ông.”
Và điều đó trở thành lệ. Chị đến đường la Pompe, bó hoa đặt trên đầu gối, anh đứng đợi trước cổng, bó hoa trên tay. Xe dừng, Étienne bước lên. Hai người đã quyết định không đi thẳng đến cổng nghĩa trang để người gác cổng khỏi thấy họ đi chung. Họ xuống xe ở chỗ rẽ, và từ đấy họ giữ khoảng cách để đi vào sau khi mỉm cười kín đáo trao lời ” Hẹn lát nữa gặp lại “.
Từ ngày cùng nhau đi chung đường, họ nói với nhau được nhiều chuyện hơn. Hoa là một trong những chủ đề đầu tiên. Cả hai đều thích hoa mùa hè và những bó hoa đồng nội có hoa thanh cúc (10) cắm xen với bông lúa mạch. Từ nay họ tự chọn và kết những bó hoa, tất nhiên là vì những người xấu số dưới mộ, nhưng cũng vì cả người cùng đi viếng.
Do công việc phê bình, Étienne phải đọc rất nhiều, và anh hướng dẫn chị đọc, cho chị mượn sách. Khi chị trả lại, anh lấy làm ngạc nhiên về những nhận xét chính xác của chị. Có lẽ chị có nhận thức chuẩn mực hơn cả Lucile. Vừa thoáng có ý nghĩ đó anh lại tự trách mình.
Họ thoả thuận với nhau là sẽ không rời Paris suốt mùa hè, trừ phi đi về vài ngày thăm gia đình ở tỉnh. Ngày giỗ của Lucile được tổ chức vào tháng bảy. Anh rất cảm động thấy Gabrielle Constant ngồi ngay hàng ghế đầu trong nhà thờ. Nay anh đã biết tên thiếu phụ áo đen.
Tôi không thích lễ lượt kiểu này, chị nói với anh, nhưng đấy là truyền thống gia đình.
Sang tháng tám, trời nóng bức, chị tự cho phép mình mặc đồ tang hai màu trắng và đen.
Anh Antoine không thích tôi mặc đồ đen, chị nói như để giải thích và thanh minh.
Một buổi tối, anh mời chị đi ăn ngoài trời, ở vùng ven Paris. Ngồi nơi chiếc bàn nhỏ, trong bóng tối, hai người nói chuyện với nhau, gần gũi, tin cậy.
Antoine rất thích ăn tối trong Rừng(11), quả thật là rất thú vị… Paris và rừng cây xen vào nhau… Nhiều lần đi làm về anh ấy bất ngờ nói: ” Nào, mình vào rừng đi!” Thật là một người chồng tuyệt vời.
Thật ra có một ông chồng như thế không quá khó với một phụ nữ như bà.
Tại sao?
Vì bà có tất cả, sắc đẹp, tâm hồn, và một tính cách tuyệt hảo…
Ông đừng quá khen. Ông đâu đã hiểu hết tôi. Đã có lúc tôi gây cho Antoine nhiều chuyện khủng khiếp.
Đúng vậy. Tôi chẳng nghĩ bà có thể như vậy.
Chị cười, rồi nói tiếp, vẻ mặt thoáng chút u buồn.
Có đấy. Antoine tội nghiệp. Anh ấy rất cả ghen… Còn tôi, tin ở lòng chung thuỷ của mình, có khi tôi cũng đùa với lửa… Anh ấy giận, tôi cãi lại. Tôi ân hận vì đôi khi đã làm anh ấy bực. Nhưng thường là lỗi tại anh ấy thôi.
Bỗng nhiên, lòng đầy hối tiếc, chị nhìn anh sợ hãi, van lơn, trìu mến.
Trời ơi, tôi vừa nói chuyện gì vậy? Ông hãy quên đi! Buổi tối êm đẹp như thế này làm người ta dễ thổ lộ tâm sự, đôi khi cả những điều không nên nói ra… Một buổi tối như thế này, chị nói tiếp, giọng tuyệt vọng, tôi rất cần có anh ấy bên cạnh…
Trong đêm tối, những giọt nước mắt ràn rụa trên mặt. Chị quay đi, lấy khăn lau mắt.
Tôi còn trẻ, trẻ quá, nhưng đời tôi thế là hết rồi… Tôi là người phụ nữ bất hạnh nhất trên đời.
Anh đặt bàn tay trên tay chị.
Không, anh nói. Đâu phải mọi chuyện đã hết đối với bà… Cuộc đời không hẳn như vậy. Các mùa kế tục nhau mỗi năm, và mang đến những sắc hoa riêng… Buông theo những ám ảnh của quá khứ đâu phải là tốt lành cũng chẳng khôn ngoan… Làm như vậy khiến kỷ niệm mất đi tính nhân ái… Vâng, đúng vậy… Kỷ niệm giúp cho ta sống, đâu phải ngăn trở cuộc sống, cho chúng ta thêm can đảm, đâu phải tước bỏ đi… Bởi vì bà với tôi đều đã trải qua cuộc sống lứa đôi hạnh phúc, chúng ta đều biết là có thể có một cuộc hôn nhân hoà hợp… Bà không tin vậy sao?
Chị để yên tay mình trong tay anh, nhìn anh qua làn nước mắt với vẻ nghi hoặc, rồi lắc đầu.
Không, tôi không tin… Điều buồn nhất, không phải là chính nỗi buồn, mà là vì không thể cảm thấy buồn được nữa… Tôi đã thề sẽ thuỷ chung.
Tôi cũng thế! anh trả lời, gần như cao giọng. Còn đau khổ là vẫn còn tình yêu.
Người phục vụ đến mời họ gọi món tráng miệng. Chị chọn dâu tây ngâm đường, và hướng câu chuyện sang những đề tài bớt riêng tư hơn.
Hôm sau, như thường lệ, chị đến đón anh cùng đi ra nghĩa trang. Suốt dọc đường, cả hai đều cảm thấy ngượng ngùng, thiếu tự nhiên. Người tài xế cáu kỉnh không ngớt càu nhàu về khách qua đường, về cảnh sát, về thời tiết. Đứng trước các ngôi mộ, thời gian mặc niệm của mỗi người có vẻ lâu hơn những tuần trước. Khi ra cổng, họ đi ngang qua một đống đá vỡ vụn. Có thể thấy những thân cột, những mảnh bia còn vài chữ: “đời đời nhớ…, tưởng nhớ…”. Chị dừng lại. – Đây là khuôn viên mộ nhượng lại, nay không còn được chăm sóc, anh nói. Khi một nấm mộ không ai thăm viếng trong vài năm, rồi nó đổ nát, họ phá đi để lấy chỗ.
Étienne, chị nói (lần đầu tiên chị gọi tên anh), tôi thấy cảnh này buồn lắm. Những người đã khuất này chẳng còn ai, không ai nhớ đến họ nữa, họ lại chết một lần nữa.
Anh khoác tay chị và chị nép vào người anh.
Trên xe taxi về nhà, họ bàn về cuốn sách anh hứa cho chị mượn, anh ngỏ ý mời chị ghé lại nhà để lấy sách. Lần đầu tiên kể từ khi quen anh, chị bước chân vào nhà anh. Trên các bàn, trên tường, trên bàn làm việc, chỗ nào cũng thấy ảnh của Lucile.
Em có thấy cái nhà âm u này đã bừng sống lại từ khi em bước vào không?
Chị nghĩ là anh sẽ ngỏ lời cầu hôn, nhưng chị không muốn điều đó diễn ra ngay trong căn phòng dành riêng cho để tưởng nhớ một người khác.
Tối nay anh sẽ làm gì? chị hỏi.
Chưa định làm gì. Hay ta đi ăn tối nhé?
Chị gật đầu, đưa tay cho anh hôn rồi ra về.
Chị lang thang một mình ở ngoài đường mãi mới về nhà. Bàng hoàng, nhưng hạnh phúc, chị ngạc nhiên thấy mình lại thấy yêu đời.
Chị nghĩ thầm: Tất nhiên anh Antoine không muốn mình từ bỏ tình yêu ở tuổi này… Hẳn anh cũng mong mình đi bước nữa… Nếu mình chết trước, mình cũng mong như thế…
Tất cả những điều đó đều là thực, nhưng trước đây chị đã chọn một thái độ, đã quyết cứ ở vậy, nên thật khó để báo cho bạn bè và gia đình một quyết định trái ngược hẳn, khi thời gian goá bụa chưa lâu. Và bà Amélie sẽ nói gì? Chắc chắn bà sẽ trách. Nhưng nên chăng ta chỉ sống vì người khác? Mình sẽ tổ chức đám cưới thật đơn giản, không ầm ĩ, hạn chế ở những nghi thức không thể thiếu được. Chị tưởng tượng ra cái áo sẽ mặc hôm đó, áo màu xám, cổ trắng cao và thêm cái thắt lưng cũng màu trắng thật hài hoà.
Thân Trọng Sơn dịch
(1) tưởng nhớ vợ, tưởng nhớ bạn
(2) houx
(3) bruyère
(4) primevère
(5) iris
(6) muguet
(7) Sainte- Beuve, nhà văn, nhà phê bình văn học (1804-1896)
(8) Baudelaire, nhà thơ Pháp (1821-1867)
(9) Invalides, điện Invalides, công trình nổi tiếng ở Paris, xây dựng từ thế kỷ XVII. Mục đích ban đầu của Invaldes là bệnh viện dành cho các thương binh và cựu chiến binh của quân đội hoàng gia. Ngày nay, Invalides tiếp tục duy trì một phần nhỏ cho chức năng dưỡng đường quân y, phần lớn dành cho bảo tàng vũ khí và lăng quân đội. Vào năm 1989, nhân dịp kỷ niệm 100 năm Cách mạng Pháp, mái vòm được trang trí lại lần thứ năm. 550 000 lá vàng, tức khoảng 10 kg được sử dụng cho công việc này.
(10) bleuet
(11) au Bois, tức là Bois de Boulogne, rộng đến 846 ha, ở phía Tây thủ đô Paris, địa điểm du ngoạn, vui chơi, giải trí.
THÂN TRỌNG SƠN