Papillon, người tù khổ sai

Tuần nầy, mở tờ tuần báo Obs quen thuộc, bổng thấy bài phóng sự kỷ niệm “1969- 2019 30 năm” cuốn truyện Papillon ra đời. Ký ức gợi sống lại. Bèn thoáng dịch bài viết về Papillon, chia sẻ cùng quý bạn bè thân hữu bà con. Mong, chúng ta chia sẻ, mua vui cũng được một vài trống canh.

Đây là cuốn tiểu thuyết tự thuật của một anh tù khổ sai, vượt ngục thành công?…Chuyện thiệt hay giả tưởng?… Nhưng anh kể, có thứ có tự có lớp có lang, hấp dẫn… cuộc đời, đầy giang hồ, sóng gió của một tay anh chị, du côn, ma-cô, ma cạo, giết người, thiệt? giả? Tự thuật? hay thuộc nhiều người gom lại?… Vì anh nói là anh vô tội, nhưng vẫn bị tòa án xử phạt khổ sai chung thần đày biệt xứ, sang xứ Guyane (thuộc Pháp), thủ phủ là Cayenne (nơi sản xuất ớt cay nhứt xứ… Tây). Và Papillon, gợi tôi nhớ thời, sau ngày mất nước, thằng tui cũng bị tù đày Cộng Sản, ở trại T20, đường Phan Đăng Lưu, thuộc cựu Tòa Tỉnh Gia định, tối tối chiếu cho các bạn hữu chung tình, chung tội…

PAPILLON chuyện thiệt hay giả tưởng!

Đúng một năm sau cuộc Cách mạng Sinh viên tháng Năm 1968, Henri Charrière, một cựu tù khổ sai – bagnard, từ Guyane trở về, viết một cuốn tiểu thuyết kể đời tù khổ sai của mình và trở thành tay cục cưng – coqueluche của xứ Paris – điệu nghệ. Chỉ vài tháng, trên vài TRIỆU cuốn tiểu thuyết Papillon được bán sạch. Truyện được dịch ra nhiều ngôn ngữ, và được cả đạo diễn Franklin Schaffner dựng thành phim do Dustin Hoffman và Steve McQueen thủ vai Papillon.

Sanh năm 1906 ở Saint Étienne de Lugdarès (vùng Ardèche) – tương đương với Năm Căn Cà Mau của Việt Nam ta vậy. Hai cha mẹ, Joseph và Marie-Louise đều là giáo viên làng. Con út, sau hai người chị, Henri là con trai cưng được mẹ nuông chiều. Trong truyện Papillon, chàng kể thuở thiếu thời như một bức tranh lý tưởng. … gia đình lễ giáo, hoa, quả, món ăn ngon, xem vật lạ, nghe chuyện hay… cậu bé hưởng đủ... Thế nhưng, năm 1917, mẹ chàng, Marie-Louise, mất đột ngột sau một cơn bạo bệnh. Thế giới lý tưởng của Henri tan vỡ! Và chàng bắt đầu, nổi chứng, chống đối tất cả mọi kỷ luật, bị đuổi khỏi trường sau một cuộc đánh lộn. Để tránh bị truy tố, cha chàng đưa chàng vào hải quân, mong rằng với kỷ luật quân đội, chàng sẽ đi vào nề nếp. Nhưng Henri là Henri, và chàng làm thế nào đó, cả Hải quân cũng chẳng muốn giữ chàng! Nhưng, khi giãi ngũ về lại làng, chàng lớn hẳn ra, nay là một “tay anh chị”, thoạt đầu “đầu nậu”, chẳng chốc biến thành “đại ca” của một nhóm “du đảng” phá làng phá xóm, làm ăn, kiếm chác, chẵng chốc mở rộng biên cương lãnh thổ qua những làng bên cạnh. Những buổi chợ, những buổi liên hoan, khiêu vũ ở xóm, ở làng ngon lành thật, kiếm sống đặng, nhưng đời sống “anh chị thứ thiệt” là ở Paris. Do đó chàng du Paris!

Paris:

Đến Paris. Henri phải đi tìm “chỗ đứng”. Các sòng cờ bạc vùng Montmartre, các Casino đánh lớn, các trường đua ngựa là môi trường hoạt động… đây vài cú “vay mượn”, đó vài vụ “cướp dựt”, đây “hỏi giấy”, nọ thanh toán… đụng chạm với vài tay “anh chị”, “đứng bến”, “đầu nậu”… vài cuộc yêu vội vã, hái vài hoa thơm, khi thành thị, lúc miệt vườn… nào hoa bê-tông, nào hoa đồng nội… và cuối cùng, cuộc tình với “Nénette” Georgette Fourel,… và… Vào cái đêm 26, tháng 3 năm 1930 ấy, vào 3 giờ sáng, Roland Legrand, một tên ma-cô tiểu tốt, đứng bến khu Pigalle, khu đèn đỏ, bổng ngã xuống, bụng đầy máu vì ăn đạn. Trước khi trút hơi thở, hắn khai Papillon đã giết hắn! Mà Henri cũng được giới giang hồ Paris gọi hắn là Papillon! Vì Papillon – một con Bướm, được xâm trên ngực Henri vào lúc thiếu thời, khi chàng ở ngục Calvi, trên đảo Corse năm 1920 – Papillon, con bướm điển hình cho Tự Do, cho con bọ đã thành bướm tung cánh bay tự do. Nhưng khổ thay, chỉ có Papillon Henri ta bị cảnh sát tóm cổ thôi! Và Henri chối hẳn, không nhận mình hung thủ, bảo rằng Paris lúc bấy giờ có nhiều Papillon! Có thể, nhưng cảnh sát chỉ bắt được Henri, và dù Henri có chối đi nữa, Toà vẫn không tin và tuyên án khổ sai chung thân Henri vì tội cố sát!

Tù khổ sai – le bagne

Khổ sai- địa ngục trần gian – nhưng cũng là sự giải thoát cho chàng. 13 năm tất cả. 13 năm và 9 lần vượt ngục. Vì với Papillon, ngay ngày đầu đặt chơn xuống đất tù Guyane, ngay trong đầu đã nổi lên ý chí phải vượt ngục! Phải tìm tự do! Để trả thù, những ai đã buộc tội mình! Và Papillon, từ đấy, ngày đêm chỉ nuôi ý chí phải vượt ngục!… Và cuốn truyện kéo người đọc một lèo, lôi cuốn, người đọc chia sẻ, say sưa với cái nỗi ám ảnh của vượt ngục của Henri! Người đọc theo dõi anh tù khổ sai gan dạ, anh hùng, kẻ cả, được tất cả các tù nhơn khác mến mộ (dĩ nhơn “cái mền” phải được kéo về nhơn vật chánh). Giọng văn dí dỏm, khổ thì khổ đấy, nhưng những cái nhìn của Henri Papillon không uất hận, trái lại đầy tình người, tả cái cảnh khi làm việc cùng các bạn tù “cùi”, khi nhìn thấy anh bạn cùi “rụng một ngón tay”, mà vẫn tỉnh bơ. Hay khi sống với đám thổ dân Gualiros. Trong một lần vượt ngục, chàng tắp vào đảo của thổ dân ấy, được nuôi sống và được cả người cha gả con cho làm vợ. Chàng nếm được tình yêu và nhục dục nơi các cô thiếu nữ chuyên nghề lặn vớt hột trai – pearl. Hai nàng thanh nữ, một khoảng 16 đến 18, và một cở 13/14 tuổi. Với “… hai quả đào chỉ to bằng hai quả quýt”… Lâm ly, ướt át, như những loại tiểu thuyết hạng hai.

Còn những chuyện vượt ngục? Ngoài sức tưởng tượng? Thiệt? Giả? Hoàn toàn xạo? Thêm mắm thêm muối. Có có không không! Chả sao! Nào Papillon vượt với môt chiếc bè đóng bí mật trong một nghĩa địa, nào Papillon bắt cóc một giám đốc nhà tù, trong một buổi thánh lễ tại nhà thờ, dùng áp lực để vượt ngục, nào Papillon, đánh thuốc ngủ anh cai ngục, nào Papillon dùng thuốc nổ phá tường ngục… Thất bại: hình phạt, gông cùm, nhà kín – cachot, réclusion một hình phạt ghê rợn nhứt. Papillon đáng lý phải bị nhốt trong một phòng kín, nhỏ xíu, không ánh sáng, 8 năm, và nếu vậy, chắc chắn rằng nơi ấy sẽ là mồ huyệt của chàng. May mắn thay, một hôm, một trong những buổi được phép ra “tắm nắng”, chàng nhảy xuống biển đầy cá mập để cứu một em bé gái con một quan chức chẳng may trợt chơn rơi xuống biển. Nhờ hành động dũng cảm nầy, án nhà kín được tạm ngưng. Và dĩ nhiên, cái án treo “nhà kín” cũng không làm chàng chồn chơn. Và chàng lại vẫn tiếp tục. Cuối cùng bị đày ra đảo Ma Quỷ – l’île du Diable. Cùng một người bạn, hai chàng vượt ngục trên những chiếc bè gồm một bao đầy dừa khô kết lại…Và như thế chàng tiếp tục… và cuối cùng chàng thành công năm 1944! Thở phào, mừng cho Henri!

Đổi cảnh, đổi đời:

Một cuộc đời mới bắt đầu. 38 tuổi, ở Venezuela (Nam Mỹ), Henri làm việc ở một công ty dầu hỏa, một thời gian, sau đó làm quản trị cho một khách sạn cùng cô bạn mới, Rita. Ít lâu sau hai người làm quản trị cho một khách sạn, tên Vera Cruz tại thành phố Maracaibo, 80 cây số cách biên giới Colombia. Bắt đầu từ đây, thật giả lẫn lộn. Nhưng một trong những giai thoại nghĩ rằng có thật. Rằng năm 1967, Henri Charrière, đi qua một tiệm sách Pháp ngữ ở Caracas (thủ đô của Venezuela), trong quầy sách bày cuốn tiểu thuyết “L’Astragale” tác giả Albertine Sarrazin, với lời giới thiệu là do một cựu phạm nhơn viết, và với giòng tiếp theo là xuất bản tại Paris 123,000 bản. Charrière nhà ta, tò mò mua và đọc. Đọc xong, bỏ sách xuống chàng tuyên bố “chuyện chỉ như vậy mà được 123 000 cuốn, chuyện mình chắc chắn sẽ xuất bản ba lần hơn!”. Và chàng bắt tay vào việc. Mỗi ngày, sau quầy hàng tiệm rượu Scoth-Club, tiệm nuôi sống chàng và vợ chàng… chàng miệt mài viết. 6 tháng, 13 cuốn vỡ học trò.

Viết xong chàng gởi đến nhà xuất bản của tác giả Albertine Sarrazin, Jean-Jacques Pauvert. Thế nhưng, Jean-Jacques Pauvert đã phá sản. Cánh tay phải của Jean-Jacques Pauvert, Jean-Pierre Castelnau, cầm bản viết tay của Charrière đi tìm Jean François Revel, nhà Giáo, nhà Triết học nổi tiếng, và cùng nhau đến gặp Robert Laffont, chủ nhà xuất bản số một Paris thời bấy giờ. Đây là hồi ký của cô con gái của Robert Laffont, Anne Carrière, nay cũng là một nhà xuất bản, kể lại: “Lúc ấy, cha chúng tôi ở Neuilly, (ngoại ô sang trọng phía Tây Paris), và tôi nhớ mãi, cái hôm ông đang ngồi đọc bản thảo tay của Charrière, ngoài vườn. Tôi đến gần ông (Anne năm ấy 20 tuổi), ông ngẩn đầu lên, và nói: “Cuốn truyện nầy thật quá hấp dẫn; chắc chắn ta sẽ vượt con số bán là 10 ngàn cuốn!”. Ông bán một triệu”.

Ông quyết định cho xuất bản ngay. Giữa ông và tác giả không gì trục trặc, chỉ với cái tựa. Ông quyết định dùng tựa là Papillon. Papillon không chịu. Nhứt định phải là “Con đường đầy nhục nhã – Le chemin de la pourriture”. Vincent Didier, người từng viết tiểu sử của Henri Charrière, (Papillon libéré – Con bướm được tự do nxb La Fontaine de Siloé) chứng nhơn vụ đặt tên cuốn tiểu thuyết: “Charrière giận dữ đứng dậy, nắm cà vạt nhà xuất bản, thốt: “Không được dùng tên Papillon”. Một lúc sau Robert Laffont, nhờ tôi hỏi Charrière tại sao tên Papillon tạo sự giận dữ như vậy. Charrière trả lời, cái tên Papillon nhắc hắn ta một quá khứ quá đau buồn của thời niên thiếu”. Cuối cùng Robert Laffont cũng đạt được ý muốn nhờ can thiệp của Rita, cô vợ của Charrière. Theo nàng, nhà xuất bản có lý. Cuốn tiểu thuyết Papillon ra mắt độc giả tháng 5/1969. Ngay tuần lễ đầu đã 300 000, tuần sau, 400 000 và vào giữa hè năm ấy con số xuất bản tròn trèm Một Triệu cuốn!

Ngay những ngày đầu, thành công rực rở, các nhà nhận định đều khen ngợi. Chỉ trong vài tuần lễ, sách Papillon, có số bán đứng hạng số một, hạ số bán của sách trúng Giải Goncourt “Creezy” của Félicien Marceau. Charrière từ nay, là con cưng của giới bãnh Paris. Được mời mọi nơi, nhưng vẫn còn những vụng về của tay, tuy anh chị, nhưng còn nhà quê. Anne Carrière kể: “Ba tôi (nhà xuất bản Robert Laffont tổ chức một buổi cơm trưa, mời khoảng 15 nhà ký giả gộc đến gặp Papillon, trong một tiệm ăn sang trọng ở Paris. Tôi (Anne Carrière) ngồi không xa Papillon lắm. Món ăn đầu là cá, và như thường lệ trong các loại nhà hàng nầy, nhà hàng dọn ra một cái chén nhỏ đựng nước với một lát chanh để rửa các ngón tay – rince doigts – Anh chàng Charrière, đúng dân nhà quê, chưa bao giờ thấy một cái rince doigts, và cũng không biết thông dụng, bèn bưng cái chén nhỏ và húp. Do đó, tôi cũng phải làm như vậy, ba tôi cũng làm theo, và mọi người đều bưng chén nước và húp. Khác chi một cuốn phim của Pagnol”.

Nhờ có duyên, và tài kể chuyện, Henri Charrière chinh phục từ người dân thường đến những tài tử ngôi sao. Henri được chụp hình cạnh Françoise Hardy, Johny Halliday hay Brigitte Bardot. Dĩ nhiên có bề mặt cũng có bề trái, Charrière bắt đầu bị ganh tỵ, ghen ghét… vài cuốn sách ra năm 1970 chống chàng. Nhưng chàng pha hết, và bắt đầu thoải mái với cái nghề mới của mình. Năm 70, chàng viết kịch bản scenario cho cuốn phim “Popsy Pop” và đóng phim cạnh Claudia Cardinale, cho ra đời hai dỉa hát “Papillon kể những chuyện kỳ diệu về các người bạn indiens cho các trẻ – Papillon raconte aux enfants les merveilleuses histoires de ses amis indiens” và viết một cuốn sách để chống những người còn nghi ngờ tài nghệ mình, chàng viết cuốn tiểu thuyết “Banco” năm 1973. “Papillon như một đứa trẻ con, với đôi mắt mở to, mê mẫn trước tất cả những sang trọng – Il témoignait devant le luxe, d’un émerveillement d’enfant!” Robert Laffont nhận xét về cái ngây thơ thật tình của Henri trước sự thành công.

Một hôm, hai người cần phải đi New York, Henri buộc nhà xuất bản phải mua cho mình hạng business – business class. Và vô tình, Robert Laffond ngồi cạnh nhà sản xuất phim của đạo diễn J. Schaffner tác giả sắp sữa dựng phim Papillon với Dustin Hoffman và với Steve Mc Queen trong vai chánh Papillon. Khi xuống New York, Charrière vừa chửi thề vừa nói với nhà sản xuất: “Tu vois, couillon, celui-là, c’est pas en économique que tu l’as rencontré – ĐM, nếu đi hạng chót làm sao gặp tên nầy!”. Henri Charrière mất năm 1973, khi cuốn phim được ra lò. Đời của Charrière đến phút cuối vẫn hư thực lẫn lộn như một cuốn phim.

Phỏng theo bài phóng sự của Elisabeth Philippe tuần báo OBS số 2853 tuần 11 đến 17 072019.

TB: Cuối năm 1980, tôi được Robert Despierres, anh bạn Pháp, sanh ở Việt Nam rủ tôi nhận công tác dắt một đoàn 80 người Hmong, tỵ nạn Cộng Sản qua lập nghiệp ở Guyane. Do đó tôi được dịp công tác 6 tháng và du lịch ở Guyane. Tôi có viếng Cayenne thù phủ, Đảo Ma Quỷ – île du Diable, xem những di tích của trại khổ sai…. Do đó…Một tình cờ thú vị!

Hồi Nhơn Sơn, Tháng 8 2019

Phan Văn Song

Related posts