Buồn vui cùng Trần Tuấn Kiệt

Lời tòa soạn: Nhà thơ Trần Tuấn Kiệt vừa ra đi ngày 8/10/2019 tại Sài Gòn, thọ 81 tuổi. Bài viết này viết cách nay 6 năm diễn tả cuộc sống của nhà văn này trong những năm cuối đời. Việt Luận xin đăng lại để tưởng nhớ một ngôi sao sáng trong nền văn học Việt Nam.

Ðã từ nhiều năm nay, Trần Tuấn Kiệt không còn ra ngồi cà phê lúc sáng sớm ở mấy cái quán đầu hẻm gần nhà.

Anh bảo, trong người mệt ngồi chỉ chốc lát là cái đầu cứ quay quay muốn té.

Anh có nói trạng thái quay quay này ở đầu một tập thơ tự in của anh: “Sau này tôi không thể suy nghĩ, viết gì được cả. Ðầu óc căng như búa nện vào mỗi khi viết một, hai câu. Vì thế có những ý nghĩ gì, tôi cố ghi vội thành lời ra đây thôi.” (Trong Tia Chớp Hoàng Hôn, Sài Gòn, 1997).

Ngồi cà phê có nghĩa là ngồi đấy, ở quán, có khi chỉ một mình, mà suy nghĩ đủ chuyện. Trong một thời gian dài từ ngày gia đình anh dời nhà về đây, khoảng cuối những năm 1960, tôi hay tìm được anh ở mấy cái quán rải dài từ chỗ cầu Thị Nghè đến ngã tư Hàng Xanh. Ngày còn đi dạy, trước cũng như sau năm bảy lăm, tôi lâu lâu ghé qua với anh như thế sau giờ đến lớp ở trường Văn Khoa. Ðược cái cũng tiện, từ bên Quận 1 tạt qua Thị Nghè đoạn đường chỉ non cây số.

Ngồi đấy, tôi hay được nghe Kiệt lẩm nhẩm đọc thơ mình, những câu thơ cũ hay mới xa gần chuyện bạn bè, chuyện thế cuộc nhân sinh… Có khi đang trầm ngâm, Kiệt bỗng đọc lớn lên mấy vần thơ, bảo nó mới nảy ra trong đầu, rồi lặp đi sửa chữ này, lặp lại sửa chữ kia, cuối cùng ngả người nói, “Xong.” Ðấy là một trong những cách Trần Tuấn Kiệt làm thơ.

Anh sinh năm 1939, quán làng Tân Quy Ðông, Sa Ðéc, bỏ lên Sài Gòn từ năm mười hai, mười ba tuổi, sống trôi dạt vào con đường văn nghệ vừa như một ngẫu nhiên vừa như một tất yếu. Chẳng lạ gì, hình ảnh quê hương một thủa ấu thơ hay hiện ra trong thơ anh:

Ta sinh ra đời
Bên một bến sông dài
Bờ sông đầy lau sậy
Sóng cồn vỗ xa khơi
Thời nhỏ học hành ít
Làng quê tuổi ấu thơ
Khói lửa đêm mịt mờ
Vườn tược càng xác xơ
(Trong Tia Chớp Hoàng Hôn, vừa dẫn)

Những câu thơ cứ rơi vãi thế nào, rồi anh lượm lại thế nào, thành ra bài ra bản thế nào, để xuất bản thế nào, chỉ biết trước nay người ta vẫn cho anh là người in được nhiều thơ nhất trong số những người làm thơ cùng thời.

Theo tôi, sau 1975 anh làm thơ còn nhiều hơn trước đó nữa nhưng mà không in ra được, mấy lần anh bảo, “Cứ thấy tên mình là họ gạt phăng đi.”

Vào cuối những năm 1990 đầu những năm 2000, người con gái lớn của anh, cháu Trần Thị Thùy Nhiên, đã in cho bố những tập thơ mà sau đấy anh đã cho tôi: Hồng Hạc (1996, 65 tr.), Tia Chớp Hoàng Hôn (1997, 112 tr.), Nghịch Hành (2000, 120 tr.), Tình Xuân Vạn Cổ (2000, 44 tr.), Sử Thi (2000, 114 tr.), Chân Ngôn (2000, 92 tr.). Những tập thơ tự in nhỏ cỡ bàn tay người lớn, khổ 10.5×15. Trong số này, anh có nhờ tôi viết tựa cho tập Sử Thi.

Ðấy là một cách anh hiện diện để dòng thơ anh không bị gián đoạn. Tôi có ghi nhận điều này trong bài tựa vừa nói: “Có thể, giá trị nằm ở sự hiện diện. Vấn đề là hiện diện như thế nào mà thôi. Trần Tuấn Kiệt đã hiện diện trong thơ và trong thời của ông như một nhà thơ mà bấy nay không thể nói khác. Cho nên, bây giờ với bất cứ một cách nào ông cũng có thể hiện diện như đã từng hiện diện.

“Với thời gian, với tuổi tác hay hoàn cảnh, mọi suy nghĩ đổi thay. Hình như có lúc nhà thơ thấy có điều muốn nói cùng các bậc triết giả. Nhưng thường thì ông vẫn dung dị mà chất chứa với bao điều gần gũi quanh đời. Cái cao và cái thấp, cái lớn và cái nhỏ, cái lý tưởng và cái tầm thường,… xem ra chỉ là một.

“Trong bất chợt lóe ra cả cái thần của bước truân chuyên một kiếp người, nhà thơ nhớ đến cái cội nguồn mình với bao kỷ niệm huyền ảo. Những kỷ niệm đó, có khi chỉ là một tiếng dế kêu, một cọng lau cô độc, một phận người bán vé số bên lề đường phố thị hay bóng dáng mịt mờ một người bạn dưới quê nay không bao giờ còn gặp lại nữa… Ở đó cái vui buồn, sướng khổ một đời có thể khiến ai ngó vào có khi đến phải trào nước mắt.

“Và vì thế vẫn có thơ, và nhà thơ vẫn bước đi trong đời với bao điều thân ái đâu đây.” (Sài Gòn, tháng 4-2000).

Sự hiện diện ở đây, là sự nối tiếp những gì đã có từ Lời Gửi Cây Bông Vải (NXB Quán Thơ, Sài Gòn, 1969 – giải nhất Thơ toàn quốc 1969), hay Niềm Hoan Lạc Thần Linh và Ngục Tù (Nxb Hồng Lĩnh, Sài Gòn, 1972), cùng nhiều tập thơ khác của Kiệt cùng thời gian. Nó còn là một động lực để anh tiến tới hệ thống hóa dần những dòng thơ tản mác của mình, để có mấy tập thơ nữa mà tôi biết: Thơ tuyển Trần Tuấn Kiệt – Phan Bá Thụy Dương (tự in, Sài Gòn, 2004, 180 tr., khổ 14 x 20), Thơ Trần Tuấn Kiệt (tự in, Sài Gòn, 2012, 49 tr., khổ giấy A4), Mục Tử Ca (tự in, Sài Gòn, 2012, 37 tr., khổ giấy A4 – với tranh bìa của Hồ Hữu Thủ, lời tựa của Bùi Giáng, lời bạt của Nguyễn Thị Hàm Anh).

Những tập thơ tự in này, có khi in ra rồi để mãi như thế, có khi in ra để chuẩn bị xin phép xuất bản, về một mặt nào đó là chuyện hợp pháp hay không hợp pháp, nhưng về một mặt nào đó khác thì lại không thể bảo nó không là sản phẩm văn học. Sản phẩm văn học không phải là tất cả những gì được bất kỳ ai viết ra.

Sự phân biệt hợp pháp hay không hợp pháp chỉ có ý nghĩa trong việc quản lý xã hội ở ta mà thôi. Với nhiều nguồn xuất xứ như hiện nay, sản phẩm văn học có thể ở trong luồng hay ngoài luồng. Nhà nghiên cứu văn học không phải chỉ đọc tác phẩm mà còn phải tìm ra tác phẩm để đọc, bất kể tác phẩm ở đâu và thuộc dạng xuất bản nào, trong hay ngoài nước, sách in hay sách trên mạng Internet.

Việc nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại không thể không lưu ý đến thực tế kể trên.

***

Căn nhà Trần Tuấn Kiệt ở bây giờ, xưa là một căn nhà trệt lợp tôn trong một khu gia binh thời chế độ cũ. Cuộc sống ở căn nhà cũ gần chợ Vườn Chuối, sau bao chao đảo kinh tế, bị thời cuộc “dồn đuổi” quá, vợ chồng anh phải bán đi để sống dạt ra xa với hy vọng yên thân được trong điều kiện bản thân còn trong tuổi quân dịch…

Anh luôn luôn có nhiều bạn, nhưng bạn bè đến nhà ở hai nơi cũ và mới có khác nhau.

Căn nhà cũ của Kiệt ở trong một con hẻm nhỏ của đường Phan Ðình Phùng (sau 1975 là Nguyễn Ðình Chiểu). Mỗi khi ghé đấy, tôi hay ngồi với Kiệt trên cái gác gỗ lợp tôn nhà anh, từ cửa sổ nhìn sang nhà lồng chợ Vườn Chuối lô nhô những mái tôn dưới tầm mắt. Những năm 1960 là thời điểm cực thịnh của văn nghệ Sài Gòn, nhiều bạn trong giới văn nghệ đến đây với anh, và tôi cũng quen được nhiều người trong số họ vào những dịp này. Chị Kiệt-chị Hương, bao giờ cũng tươi tỉnh trong cái hạnh phúc giao tình chúng bạn của chồng.

Về nơi ở mới, bạn bè đến với anh ít có tính tập trung hơn, một phần vì tai ương chiến tranh đã làm nhau tản mác, một phần vì cuộc sống vật chất chung của xã hội đi xuống nhất là sau biến cố ba mươi tháng tư. Căn nhà cấp bốn có một thời gian được ngăn ra làm hai bằng một tấm ván trên có treo tấm bằng Giải Văn học Nghệ Thuật Toàn Quốc năm 1969. Ở tại căn nhà này, anh chị đã dựng vợ gả chồng cho các con, và mỗi lần như thế tôi và nhà tôi đều có mặt để chúc hạnh phúc cho các cháu.

Rồi liên miên những đe dọa vì phải mang danh văn nghệ sĩ chế độ cũ, anh luôn luôn bị căng thẳng. Vốn tính nóng, ít biết nhượng bộ, có lần anh đã mạnh tay với người khác khi bị đụng chạm tự ái mà đích thực là lòng tự trọng thời cuộc, đến độ bị chính quyền địa phương chỉ định sống cách ly một thời gian. Rồi thì sau đó có dạo anh chị lên ở một căn nhà trên Phú Châu, Thủ Ðức, bảo là để trông nhà cho một người cô mới đi xa,được đâu hơn năm. Một căn nhà gạch gọn ghẽ trên một thửa đất rộng xem ra cái cảnh thảnh thơi. Tôi cũng hay chạy xe lên đây với anh. Có lần ngồi trên miệng cái hố nước rộng ở góc vườn, anh kể cho tôi nghe cái tâm cảm những ngày bị sống cách ly, khổ thì không khổ gì nhưng cô đơn khủng khiếp, và anh đã đọc cho tôi nghe bài thơ anh bảo mới làm, để “Tặng hai vợ chồng chủ quán ở Phú Châu, Thủ Ðức”:

Tình sâu nghĩa nặng hôm nay
Thổi theo hướng gió vèo bay qua trời
Ngàn năm sau, nhớ đến người
Quán chiều ai đó đón mời hồn xa
Thì ra ở đâu cũng phải là quán.

(Bài này sau anh đưa vào Tia Chớp Hoàng Hôn)
Tôi như có cái duyên gặp Kiệt trong những tình huống có vẻ tuyệt vọng như thế. Nhớ hồi đầu những năm 1970, tôi và anh bạn đồng môn thời trung học là Ðỗ Tiến Ðức, bảo lãnh cho Kiệt từ Trung tâm Quản trị Trung ương là nơi anh đang bị giữ vì có liên quan đến chuyện quân dịch, để về nhà ăn Tết. Sau này nghe chị Hương kể, Kiệt không muốn các bạn mình bị liên lụy cho nên đã vào trại trình diện đúng hạn.

Thế rồi, một vận hội mới đã đến với Kiệt. Cái tên Trần Tuấn Kiệt bị người ta gạt phăng đi lại là cơ hội để những cái tên mới thay thế để lách vào việc viết. Vào những năm 1980, việc xuất bản sách ở Sài Gòn có thêm một cung cách mới. Công việc của một nhà xuất bản có khi trao khoán cho một số người biết nghề (ít ra là đã có người nghĩ thế),họ đứng ra nhận lãnh bản thảo của người viết, lấy danh nghĩa nhà xuất bản để xin phép rồi in ra, đem bán. Kiệt xoay ra viết sách võ, truyện kiếm hiệp, theo sự gợi ý của những người anh quen trong hàng ngũ kể trên. Hẳn là ai cũng biết tình trạng này của Kiệt cả nhưng người ta cũng lờ đi. Kiệt viết rất nhanh trên những cuốn vở học trò, sách viết đến đâu người ta mua bản quyền đến đó. Ðược cái, sách bán được, đâm ra Kiệt có tiền. Cứ nghe anh khoe:

Năm mươi sách võ bội thu rồi
Tiền bạc xài vung thật đã đời
Năm năm chợt hết ngồi tư lự
Thôi thế cam đành – vạn sự chơi
(Trong Nghịch Hành, đã kể)
Ðồng tiền kiếm được Kiệt đem sửa căn nhà đang ở cho khang trang hơn mà anh ở cho đến hôm nay. Ngôi nhà mới sửa cũng có một căn gác gỗ. Ở nơi vừa làm chỗ ngủ vừa làm chỗ viết lách này của anh, chúng tôi hay ngồi bệt xuống sàn nói đủ chuyện văn chương. Kiệt nhớ, quyển đầu tiên anh bán được cho nhà xuất bản là quyển Dịch Cân Kinh, ký tên Hồng Lĩnh Sơn, khoảng 1988. Viết sách kiếm hiệp, Kiệt còn ký nhiều tên khác nhau nữa: Việt Thần, Việt Long, Duy Thức v.v…

Thế mới biết, chỉ ở một cái tên thôi nhiều khi lại là những chuyện vui hay buồn thậm chí là một lằn ranh của sự sống và sự chết, sự thành hay sự bại. Dù gì đi nữa, trong chuyện chữ nghĩa chuyên chở cuộc sống, Kiệt đã có thể tự thỏa mãn phần nào về vai trò một người viết văn của mình.

***

Cứ thế, Trần Tuấn Kiệt đi tới với thơ.

Vẫn là cuộc sống với phong ba nhục thể và bao điều trăn trở về kiếp người trong biến thiên thời cuộc. Vẫn là thực tại này đã từng bôn ba quá khứ với bao dấu nhớ con người hay cảnh vật. Vẫn cứ là ta đây với chập chùng suy tưởng trong xuôi chuỗi ngày già.

Tuổi già có thể cuốn trôi đi tất cả?
Về già nước mắt hay rơi
Cổ thêm hay nghẹn uất lời nước non
Tóc bay hoa lá bãi cồn
Thơ rơi lá rụng dập dồn như mưa

(Trong Nghịch Hành, đã kể)

Tỉnh hay mê, mê hay tỉnh, thực hay là ảo, biết đâu những cơn mộng đẹp chờn vờn?

Hoa vàng bay rơi rơi
Sông bến động sương mù
Bờ lau thuyền nhẹ tếch
Ngày tháng cùng viễn du

(Trong Hồng Hạc, đã kể)

Mê hay tỉnh, tỉnh hay mê, ảo hay là thực, còn đó mối băn khoăn chẳng riêng của một ai hôm nay:

Mâu thuẫn vẫn còn đó
Ðau thương khắp thế gian
Ðói nghèo và bạo lực
Chiến tranh với hòa bình

(Trong Tình Xuân Vạn Cổ, đã kể)

Có thể nói, sức làm thơ của Trần Tuấn Kiệt vẫn mạnh, rất mạnh. Làm thơ như một bản năng, tôi nghĩ thơ Kiệt từ đó chưa dừng lại, thơ làm ra có hay hay không thì cũng là thơ Trần Tuấn Kiệt. Và nó như con người Kiệt, mạnh mẽ, bạo liệt mà không để tự đánh mất mình bao giờ. Anh không chịu sự đánh đổi bằng mọi giá với bất kỳ ai để có được sự đầy đủ hơn trong cuộc sống vật chất hay thuận lợi hơn trong con đường văn nghệ của mình. Anh cũng không sa đà vào chỗ nói năng bất mãn hoặc phê phán vụn vặt giữa một thực tế còn bao nỗi ngổn ngang. Có lẽ đấy là điều đã làm nên giá trị đạo đức văn nghệ ở con người Kiệt.

Năm nay đã ở vào tuổi bảy mươi tư, Trần Tuấn Kiệt sức khỏe đã kém đi nhiều, đang là nhân chứng cho cả một giai đoạn văn học Việt Nam mà anh có một phần đóng góp trong đó.

Tôi hơn Kiệt một tuổi, vẫn thường đến với anh những ngày này. Ðộ rày anh cũng ít đi đâu,đến nhà thường là gặp. Cứ mỗi lần gặp là lại thấy cái dáng lững thững rất riêng của anh, dù chỉ trong mấy bước chân đi. Một lần, tôi ghé lúc ngang sáng, anh đi từ trong nhà ra, miệng lẩm nhẩm mấy câu thơ trong tập Chân Ngôn, “Ta giang hồ thuở bé/ Quên cả tình mẹ cha/Giờ đến ngày giỗ mẹ/ Thấy cả lòng xót xa,” đoạn bước đến vỗ vỗ vào cái xe máy của tôi với đôi mắt dân dấn đỏ rồi trầm giọng xuống đầy vẻ thân thương, “Mày còn đem được lão huynh lại chơi với tao, cám ơn mày!”

Nguyễn Văn Ðậu

(26.8.2013)

Related posts