Hương Thảo
Các chuyên gia cảnh báo, Bắc Kinh sẽ tăng cường các cuộc diễn tập quân sự chống lại Đài Loan và đang đẩy nhanh kế hoạch xâm lược hòn đảo này, theo Epoch Times.
Những lần xâm phạm vùng trời Đài Loan liên tiếp của máy bay Trung Quốc thời gần đây cho thấy thái độ thù địch của Bắc Kinh đối với quốc đảo đã gia tăng đáng kể kể từ năm 2020.
Việc Tổng thống Đài Loan Thái Anh Văn tái đắc cử vào tháng 1/2020 và tiếp tục tỏ thái độ cứng rắng đối với ĐCSTQ, cùng với việc Đắc Bắc có các động thái hợp tác sâu sắc hơn với Hoa Kỳ đã khiến ĐCSTQ leo thang hành vi hiếu chiến chống lại hòn đảo này.
Năm ngoái có khoảng 380 lần máy bay quân sự Trung Quốc xâm nhập Vùng Nhận dạng Phòng không Đài Loan, mức cao kỷ lục kể từ năm 1996. Kể từ đầu năm nay, quân đội ĐCSTQ đã đưa máy bay vào vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan hầu như mỗi ngày.
Vào ngày 1/4, Cảnh sát biển Đài Loan thông báo rằng Bắc Kinh đã triển khai máy bay không người lái gần đảo Đông Sa của Đài Loan ở phía bắc Biển Đông. Các nhà chức trách Đài Loan tuyên bố rằng không thể loại trừ việc Bắc Kinh đang sử dụng các máy bay không người lái này để do thám.
Trong khi thực hiện các hành động quân sự, ĐCSTQ cũng tăng cường các lời lẽ đe dọa chống lại Đài Loan. Đầu năm nay, một phát ngôn viên của Bộ Quốc phòng ĐCSTQ đe dọa rằng nếu Đài Loan tuyên bố độc lập, nước này sẽ gây chiến với Đài Loan.
Vào ngày 31/3, Hồ Tích Tiến, Tổng biên tập của “Thời báo Hoàn cầu” của ĐCSTQ, tuyên bố trên phương tiện truyền thông xã hội của mình rằng, nếu một cuộc chiến nổ ra, ông ta sẽ hạ lệnh cho những tráng đinh đổ bộ lên đảo, cho nổ tung mọi thành lũy của Đài Loan.
Hôm 29/3, một phi công Trung Quốc đã lái máy bay vào “Vùng nhận dạng phòng không” của Đài Loan hôm ngày 29/3. Sau khi bị một máy bay Đài Loan chặn và yêu cầu rời khỏi không phận, anh ta nói, “Tất cả là của chúng tôi”.
Chuẩn bị xâm lược
Ông John Mills, cựu giám đốc chính sách an ninh mạng, chiến lược và các vấn đề quốc tế tại Bộ Quốc phòng Mỹ, nói với Epoch Times rằng sự xâm nhập quấy rối của Bắc Kinh là một phần của một loạt các cuộc tập trận quân sự lớn nhỏ nhằm chuẩn bị cho cuộc tấn công vào Đài Loan.
Ông Mills dự đoán rằng các cuộc tập trận này có thể đạt đến đỉnh điểm về quy mô lớn trong vòng hai năm tới. Ông cho biết, xem xét sự phức tạp của các hoạt động đổ bộ, và trong tình huống mà quân đội Trung Quốc chưa hề thực chiến trước đây, việc đổ bộ cưỡng bức vào đất liền của đối phương cần có các cuộc diễn tập như thế này.
Ông Mills nói rằng bất kỳ cuộc tấn công đổ bộ nào vào Đài Loan cũng có thể có sự tham gia của các tàu buôn và tàu đánh cá dân sự của ĐCSTQ.
Ông tin rằng một cuộc chiến với Đài Loan có thể xảy ra trong vòng ba năm tới, sớm hơn nhiều so với dự đoán 6 năm mà Tư lệnh Bộ Chỉ huy Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ, Đô đốc Philip Davidson đưa ra tại một cuộc điều trần trước quốc hội Mỹ vào đầu tháng 3.
“Nếu họ không làm được như vậy trong vòng 10 năm, tôi nghĩ [lãnh đạo ĐCSTQ] Tập Cận Bình có thể bị cách chức. Tôi nghĩ 6 năm là quá lâu”, ông Mills nhận định. Ông nói thêm rằng Tập Cận Bình có thể chịu áp lực tấn công Đài Loan để chuyển hướng sự chú ý khỏi các vấn đề nội bộ như khủng hoảng kinh tế.
John Aquilino là người được đề cử để kế nhiệm Davidson (Tư lệnh đầu tiên của Bộ Tư lệnh Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương) làm tân Tư lệnh của Bộ Chỉ huy Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Hoa Kỳ. Ông từ chối xác nhận ước tính 6 năm của Davidson tại phiên điều trần vào tháng 3. Ông tuyên bố rằng mối đe dọa về cuộc xâm lược Đài Loan của ĐCSTQ “có thể nhanh hơn nhiều so với dự kiến của hầu hết mọi người”.
Cựu cố vấn an ninh quốc gia H.R.McMaster cũng đồng ý với điều này. Vào tháng 3 năm nay, ông nói rằng Tập Cận Bình tin rằng “Ông ta có cơ hội chớp nhoáng để tấn công Đài Loan”. Ông McMaster nói, bắt đầu từ năm 2022, khoảng thời gian này là thời điểm “nguy hiểm nhất” của Đài Loan, trùng với lễ bế mạc Thế vận hội mùa đông Bắc Kinh 2022.
Ông Mills nói rằng quân đội ĐCSTQ vẫn chưa sẵn sàng để tấn công Đài Loan. Tuy nhiên, vấn đề là thời gian chờ đợi càng lâu thì Đài Loan sẽ càng chuẩn bị kỹ càng hơn cho viêc phòng ngự.
Ông Mills cảnh báo: “Tất cả chúng ta cần nhận thức được sự tăng tốc của các mốc thời gian này và chuẩn bị sẵn sàng”.
Ông Mills cho rằng, tham vọng của Bắc Kinh đối với Đài Loan chủ yếu là do thế lực này muốn tận dụng khả năng sản xuất chất bán dẫn của Đài Loan. Đài Loan là trụ sở chính của Taiwan Semiconductor Manufacturing Co (TSMC), nhà sản xuất chip đúc lớn nhất thế giới.
Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào chất bán dẫn nước ngoài – những con chip siêu nhỏ cần thiết cho mọi thứ, từ điện thoại di động đến tên lửa. Theo dữ liệu của Bloomberg, Trung Quốc đã nhập khẩu chip trị giá 380 tỷ USD vào năm 2020, chiếm khoảng 18% tổng kim ngạch nhập khẩu của nước này.
Sau khi chính quyền Trump áp đặt một loạt lệnh trừng phạt đối với các công ty Trung Quốc, ĐCSTQ hiện đang nỗ lực để đảm bảo quyền tiếp cận các chất bán dẫn nước ngoài. Lệnh trừng phạt của Mỹ đã làm tê liệt hoạt động kinh doanh điện thoại thông minh của gã khổng lồ công nghệ Trung Quốc Huawei. Nhà sản xuất chip Trung Quốc SMIC cũng đã bị đưa vào danh sách đen thương mại.
Phản công Hoa Kỳ
Ông Tống Học Văn (Soong Hseik-wen), giáo sư tại Viện Chiến lược và Các vấn đề Quốc tế tại Đại học Quốc gia Chung Chính ở Đài Loan, nói với phóng viên Epoch Times rằng việc ĐCSTQ quấy rối Đài Loan bằng 20 máy bay chiến đấu vào ngày 26/3 là một hành vi đáp trả hành động của chính phủ Mỹ vào tháng Ba.
Theo ông Tống Học Văn, những hành động này bao gồm hội nghị thượng đỉnh đầu tiên giữa Tổng thống Biden và các nhà lãnh đạo của Úc, Ấn Độ và Nhật Bản; cuộc họp giữa Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken và Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin với những người đồng cấp Nhật Bản tại Tokyo; và cuộc họp Trung-Mỹ ở Anchorage, Alaska.
Ông nói: “Ba vụ việc này cho thấy có những xung đột mang tính kết cấu giữa Trung Quốc và Mỹ mà không thể giải quyết thông qua đàm phán ngoại giao.
Đã có một cuộc hội đàm gay gắt trong cuộc đàm phán kéo dài hai ngày ở Alaska vào ngày 18/3. Nhà ngoại giao ĐCSTQ Dương Khiết Trì trong cuộc hội đàm đã kịch liệt công kích các chính sách ngoại giao và mậu dịch của Mỹ. Ông ta nói rằng chế độ dân chủ của Mỹ đang khốn khổ, người thiểu số bị phân biệt đối xử.
Cuộc họp này nêu bật sự khác biệt giữa chế độ cầm quyền ở Trung Quốc và Mỹ về các vấn đề quan trọng, bao gồm vấn đề nhân quyền. Phái đoàn ĐCSTQ bác bỏ lo ngại của Mỹ về việc Bắc Kinh vi phạm nhân quyền ở Tân Cương, đàn áp tự do của Hồng Kông và đe dọa Đài Loan với lý do đây là chuyện “nội chính” của Trung Quốc.
Ông Tống Học Văn nói rằng Bắc Kinh coi những hành động này của Mỹ là hành động leo thang chống lại chế độ, vì vậy họ đã quyết định cử một phi đội không quân lớn đến vùng nhận dạng phòng không của Đài Loan vào ngày 26/3 để chứng tỏ sức mạnh quân sự của mình.
Ông Tống nói thêm rằng Bản ghi nhớ về Hợp tác Tuần tra Hàng hải Mỹ – Đài được ký vào ngày 25/3 có thể đã góp phần khiến Bắc Kinh thực hiện hành vi quấy rối vào ngày 26/3. Ông nói rằng thỏa thuận này rõ ràng là một đòn phản công chống lại ĐCSTQ, nước đã thông qua luật hồi tháng Giêng cho phép cảnh sát biển của họ nổ súng vào các tàu nước ngoài khi cần thiết.
Ông Tống nói rằng thông qua thỏa thuận, chính phủ Mỹ “tuyên bố rõ ràng” rằng Lực lượng Bảo vệ Bờ biển cũng sẽ trở thành một phần trong chiến lược hàng hải của nước này nhằm đảm bảo hòa bình và ổn định trong khu vực.
“Luật Cảnh sát Hàng hải” của ĐCSTQ đã thu hút sự chú ý rộng rãi của các nước láng giềng như Nhật Bản, Philippines, Đài Loan và Việt Nam.
Vào ngày 28/3, ông John Hennessey-Niland, Đại sứ Mỹ tại Palau, đã đến Đài Loan với tư cách là thành viên của phái đoàn Palau do Tổng thống Palau Surangel Whipps dẫn đầu. Palau là một trong 15 đồng minh ngoại giao trên thế giới của Đài Loan.
Tống Học Văn suy đoán rằng có thể Bắc Kinh đã biết tin về chuyến thăm Đài Loan của đại sứ Mỹ khiến Bắc Kinh bày tỏ sự không hài lòng.
Kelly Craft, cựu đại sứ Mỹ tại Liên Hợp Quốc, ban đầu dự định đến thăm Đài Loan vào giữa tháng 1, nhưng đã hủy chuyến đi vào phút cuối.
Đài Loan tự vệ
Trước mối đe dọa quân sự ngày càng leo thang từ ĐCSTQ, Mills nói rằng chính quyền Biden nên áp dụng một chiến lược răn đe rõ ràng chống lại ĐCSTQ. Cụ thể, ông Mills cho rằng Mỹ nên tăng cường sự hiện diện quân sự của hải quân và không quân xung quanh Đài Loan và ở Biển Đông Hải và Nam Hải.
Ông Mills tin rằng việc cải thiện khả năng tự vệ của Đài Loan cũng rất quan trọng. Chính quyền Biden nên bán bất kỳ vũ khí nào mà họ yêu cầu cho Đài Loan theo “Đạo luật Quan hệ Đài Loan”. Theo đạo luật, Mỹ có nghĩa vụ cung cấp cho Đài Loan những vũ khí cần thiết để tự vệ.
Theo ông Mills, cuối cùng, Sáng kiến Răn đe Thái Bình Dương (PDI), được thành lập theo Đạo luật Ủy quyền Quốc phòng năm Tài chính 2021, cũng sẽ rất quan trọng đối với việc bảo vệ khu vực của quân đội Mỹ.
PDI tương tự như “Sáng kiến răn đe châu Âu”, được thiết kế để ngăn chặn các mối đe dọa quân sự của ĐCSTQ ở khu vực Ấn Độ-Thái Bình Dương với khả năng quân sự tiên tiến.
Để chống lại một cuộc xâm lược có thể xảy ra, Đài Loan “luôn dự trữ đủ đạn dược”, ông Mills cho biết. Hòn đảo này gần đây đã bắt đầu sản xuất tên lửa tầm xa có thể xâm nhập sâu vào lục địa Trung Quốc, đây là một “đại sự”. Ông Mills nói đây là một tín hiệu minh xác thể hiện rằng họ có thể chủ động xuất kích và tấn công lại đối phương.
Ông Mills cũng cho biết thêm rằng, Đài Loan gần đây đã bắt đầu sản xuất tên lửa tầm xa có thể xâm nhập vào Trung Quốc đại lục. Đây là một “sự kiện lớn”.
Theo ông Mills, tên lửa của Đài Loan là “một tín hiệu rõ ràng rằng họ sẽ chủ động tấn công và tấn công chống lại phía bên kia”.
Ông Tống Học Văn gợi ý rằng chính quyền Biden có thể hỗ trợ Đài Loan theo hai cách: hỗ trợ Đài Loan tham gia vào các tổ chức quốc tế, và hoan nghênh Đài Loan là một phần của “Liên minh sản xuất công nghiệp đáng tin cậy”.
Vào tháng 2 năm nay, Biden đã ký một lệnh điều hành để bắt đầu đánh giá 100 ngày đối với chuỗi cung ứng của một số ngành công nghiệp chủ chốt ở Mỹ, bao gồm chất bán dẫn, dược phẩm và các sản phẩm khoáng đất hiếm.
Viện Hoa Kỳ tại Đài Loan (American Institute in Taiwan, viết tắt là AIT, Đại sứ quán Mỹ tại Đài Loan trên thực tế) đã thông báo vào ngày 1/4 rằng một diễn đàn video đã được tổ chức giữa các quan chức cấp cao ở Đài Loan và Mỹ vào ngày 31/3 để thảo luận về việc mở rộng Đài Loan tham gia trong “các tổ chức của Liên hợp quốc và các diễn đàn quốc tế khác”, bao gồm cả những nỗ lực của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO).
Do sự phản đối của Bắc Kinh, Đài Loan hiện không phải là thành viên của WHO.
Ông Tống Học Văn nói rằng chính quyền Biden cũng có thể thực hiện các biện pháp tích cực để thực hiện một số đạo luật ủng hộ Đài Loan mà cựu Tổng thống Trump đã ký thành luật. Các đạo luật này bao gồm “Đạo luật Du lịch Đài Loan”, “Đạo luật Đài Bắc” và “Chương trình Tái bảo hiểm Châu Á”.
Đài Loan, nằm trên chuỗi đảo thứ nhất, sẽ là một trong những mục tiêu tấn công quân sự đầu tiên của ĐCSTQ ở châu Á. Chuỗi đảo thứ nhất là đường phân chia nhân tạo (vành đai đảo hình chuỗi) từ đảo Kyushu ở miền nam Nhật Bản ở phía bắc, Đài Loan ở giữa và Philippines đến Indonesia ở phía nam.
Trong nhiều thập kỷ, các chiến lược gia quân sự của ĐCSTQ luôn coi chuỗi đảo thứ nhất là chướng ngại vật đối với sức mạnh hải quân và không quân của ĐCSTQ. Chướng ngại này đã khiến ĐCSTQ không thể vươn tới chuỗi đảo thứ hai và xa hơn nữa.
Do đó, ông Tống Học Văn cho rằng một số quốc gia châu Âu và châu Á, đặc biệt là Nhật Bản và Australia, đang rất chú ý đến Đài Loan để xem mối quan hệ hợp tác giữa Đài Bắc và Washington có ổn định hay không.
Tống Học Văn nói: “Tất cả các quốc gia này đều quan tâm chú ý đến cách chính phủ Mỹ sẽ thực thi các đạo luật này như thế nào, và họ nghi ngờ về việc liệu Hoa Kỳ (cam kết đối với an ninh của các đồng minh của mình) chỉ là lời nói trong một số trường hợp”.
Chính quyền Biden đã tuyên bố rằng cam kết của họ với Đài Loan là “vững như bàn thạch”. Tuy nhiên, Tống Học Văn tin rằng vẫn còn phải xem chính quyền Biden nghiêm túc như thế nào trong việc bảo vệ Đài Loan, đặc biệt là vì bản thân Biden chưa bao giờ sử dụng từ “uy hiếp” để mô tả ĐCSTQ.
Biden chỉ coi chế độ Cộng sản Trung Quốc là “đối thủ cạnh tranh lớn nhất” của Mỹ.
Ông Tống Học Văn cũng nói rằng ông dự kiến các cuộc xung đột quân sự quy mô nhỏ giữa Mỹ và ĐCSTQ trong tương lai gần, đặc biệt là trên hai hòn đảo do Đài Loan kiểm soát ở Biển Đông – Đảo Đông Sa và Đảo Thái Bình. Ông cũng tin rằng Mỹ và ĐCSTQ đang trong một cuộc chiến tranh lạnh mới.