Hải Lam
Từ lâu, Bắc Kinh đã bị lên án về hành vi đánh cắp tài sản trí tuệ, thậm chí còn không ngần ngại “khoe khoang thành tích” ngay trên các diễn đàn ….
Theo Vision Times, tại một bài giảng gần đây tại Đại học Thanh Hoa ở Bắc Kinh, chuyên gia tiếp thị kiêm giáo sư thỉnh giảng, Zang Qichao, đã khoe khoang về chiến lược của ĐCSTQ trong việc mô hình hóa các hoạt động và thực tiễn kinh doanh sau khi đánh cắp tài sản trí tuệ (IP) và công nghệ từ các công ty nước ngoài. Hành vi ăn cắp ý tưởng bao gồm hoạt động gián điệp của công ty, tấn công mạng và xây dựng các cơ sở hoạt động thông qua quan hệ đối tác với các tập đoàn nước ngoài cư trú tại Trung Quốc đại lục.
Hành vi ăn cắp công nghệ của Trung Quốc
Ông Zang nói, “Chúng tôi ăn cắp ý tưởng, sao chép rầm rộ… quyền sở hữu trí tuệ nào? Công nghệ được cấp bằng sáng chế nào? Chúng tôi sẽ có được nó trước và giải quyết nó sau”. Ông nói thêm, “Khi chúng tôi nhìn lại, các nhà máy là của chúng tôi, thiết bị là của chúng tôi, công nghệ là của chúng tôi, bằng sáng chế là của chúng tôi… Những người nước ngoài đều ra đi”.
Một ví dụ điển hình về hành vi ăn cắp đã xảy ra trong ngành công nghiệp bán dẫn, khi công ty Trung Quốc, Fujian Jinhua, bị buộc tội ăn cắp IP từ công ty Mỹ, Micron, và sau đó bị cấm làm việc hoàn toàn với các công ty Mỹ.
Do thiếu chuyên môn phát triển, các công ty bán dẫn của Trung Quốc đã tìm kiếm những người thuê mới từ các nhà thầu nước ngoài để có thể cạnh tranh ở cấp độ quốc tế, và họ đã tuyển dụng thành công kỹ sư từ các công ty như Samsung Electronics và SK Hynix của Hàn Quốc.
Theo nhà phân tích ông Cheng Xiaonong, cựu Tổng biên tập của Nghiên cứu Trung Quốc hiện đại, lý do mà các công ty Trung Quốc thiếu động lực để đổi mới là vì nghiên cứu và phát triển liên quan đến các khoản đầu tư rủi ro và tốn kém có thể không thành công trong tương lai. Ngược lại, ăn cắp và sao chép các sản phẩm phổ biến sẽ có được kết quả ngay lập tức.
Trung Quốc vũ khí hóa thương mại và lôi kéo các công ty nước ngoài
Nhiều công ty Trung Quốc được ĐCSTQ trợ cấp và giành được thị phần của các đối thủ cạnh tranh với chi phí thấp hơn. Một khi hàng hóa giá rẻ tràn ngập thị trường và các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào Trung Quốc để sản xuất các mặt hàng với chi phí thấp, hàng hóa sau đó có thể được sử dụng thành vũ khí hóa thương mại để trừng phạt các quốc gia về mặt tài chính trong các cuộc tranh chấp quốc tế.
Trong các cuộc chiến tranh thương mại, Trung Quốc thường trừng phạt các nước thông qua thuế quan hoặc lệnh cấm đối với hàng hóa nhập khẩu. Mùa đông vừa qua, mặc dù đang gặp phải tình trạng thiếu điện, Trung Quốc đã cấm nhập khẩu than và đánh thuế nặng đối với rượu nhập khẩu từ Úc.
Trung Quốc cũng lôi kéo các công ty nước ngoài kinh doanh trong ‘biên giới’ của mình. Bất chấp thực tế là các tập đoàn Mỹ thường xuyên gặp phải các sự cố khi bị đánh cắp và tấn công IP từ các cá nhân và công ty Trung Quốc, các doanh nghiệp vẫn tiếp tục tìm cách tiếp cận các thị trường béo bở của Trung Quốc.
Nhà máy mới của Tesla ở Thượng Hải nhằm cung cấp cho thị trường châu Á và châu Âu, nhưng sau một cuộc đàn áp gần đây của Bắc Kinh nhằm cấm các nhân viên chính phủ và quân đội lái xe Tesla, vẫn chưa rõ liệu công ty có bị đẩy ra khỏi đất nước để ủng hộ các nhà sản xuất xe điện trong nước hay không.
Cạnh tranh lành mạnh giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ đã thúc đẩy tăng trưởng
Các công ty sao chép các phương thức kinh doanh và đổi mới của Hoa Kỳ đã thực sự mang lại lợi ích cho người Mỹ trong một số trường hợp, bằng chứng là sự trỗi dậy của ngành công nghiệp ô tô Nhật Bản ở Mỹ. Người Nhật chủ yếu dựa vào kỹ thuật đảo ngược của ô tô Mỹ để tạo ra ngành công nghiệp ô tô nội địa của mình trong những năm 1930.
Ô tô Nhật Bản lần đầu tiên thâm nhập thị trường Mỹ vào những năm 1950, nhưng không tạo ra doanh số đáng kể cho đến những năm 1970, sau khi các thành viên của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ Ả Rập (OAPEC) áp đặt lệnh cấm vận dầu mỏ của Mỹ đã khiến người Mỹ mua các phương tiện tiết kiệm nhiên liệu hơn.
Cuối cùng, việc nhập khẩu xe hơi rộng rãi của Nhật Bản đã gây ra sự mất cân bằng thương mại mà chính quyền Reagan đã giải quyết vào năm 1981, khi Nhật Bản đồng ý hạn chế số lượng ô tô bán cho Mỹ theo chính sách hạn chế xuất khẩu tự nguyện (VER). Các hạn chế đã khuyến khích các công ty ô tô Nhật Bản chuyển một số hoạt động sản xuất sang Mỹ và thuê công nhân Mỹ.
Các phương pháp hay nhất trong sản xuất ô tô đã được chia sẻ giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 1984, khi liên doanh giữa Toyota và General Motors dẫn đến việc thành lập nhà máy New United Motor Manufacturing, Inc. (NUMMI) ở California. Với sự hợp tác và cải thiện tiêu chuẩn sản xuất, ngành công nghiệp ô tô Nhật Bản tại Mỹ đã phát triển mạnh mẽ và hiện hỗ trợ hơn 1,6 triệu việc làm của người Mỹ.