Kamala Harris có dịp đứng về phía dân chủ trong tuần này. Bà nên sử dụng nó

Washington Post

Tác giả: Will Nguyễn

Trúc Lam, chuyển ngữ

23-8-2021

Phó Tổng thống Harris nói chuyện với quân nhân khi bà đến thăm tàu USS Tulsa ở Singapore hôm thứ Hai. Nguồn: Evelyn Hockstein / Reuters

Will Nguyễn là nhà hoạt động dân chủ người Mỹ gốc Việt, là người làm việc với các nhóm xã hội dân sự ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, Bắc Mỹ và châu Âu.

Nhà vệ sinh, bồn rửa chén và rửa mặt của tôi đều có cùng một cái hố ở dưới đất. “Cái gối” của tôi là một bao đường nhỏ và giường của tôi là một manh chiếu mỏng bằng rơm, trải trên nền đá.  Suốt 41 ngày trong năm 2018, tôi đã sống mòn mỏi trong một phòng biệt giam ở TP HCM, bị đánh đập và bị bắt vì đã giúp người dân Việt Nam thực hiện các quyền hiến định của họ.

Nhưng so với các vụ kết án chính trị ở Việt Nam, tôi là một trong những người may mắn. Tôi có nguồn gốc là người Việt Nam, nhưng do một ngã rẽ bất công của số phận, tôi đã được sinh ra ở Hoa Kỳ. Những công dân Việt Nam đang đấu tranh cho các quyền của mình phải chịu đựng những điều kiện [giam giữ] thời Trung Cổ này trong nhiều năm, có khi hơn một thập niên, việc họ ở sau song sắt trực tiếp liên quan tới những ý kiến bất chợt của cảnh sát, điều tra viên, công tố viên và các thẩm phán toà án, tất cả những người này đều do một đảng chính trị hợp pháp kiểm soát.

Sự bất công này có thể thấy rõ, và phó Tổng thống Harris có thể nỗ lực để giảm bớt nó khi bà đến thăm Việt Nam trong tuần này. Với tư cách là người đại diện cho một chính quyền, hứa sẽ tiếp tục nhấn mạnh việc thúc đẩy dân chủ và nhân quyền, bà có cơ hội lên tiếng đòi phóng thích các nhà bất đồng chính kiến Việt Nam, những người không làm gì ngoài việc yêu cầu Hiến pháp của chính họ được thực thi.

Trong số ít các nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa còn lại trên thế giới, Việt Nam là một nhà nước độc tài, do đảng cộng sản điều hành trên danh nghĩa, cai trị dân số thuộc nhóm thân tư bản và thân Mỹ nhất trên trái đất. Sự sụp đổ bất ngờ của Afghanistan cho thấy rằng, Hoa Kỳ không thể đơn giản áp đặt nền dân chủ, tự do lên các nước khác, ngay cả khi họ có chung quan hệ tương tự như vậy. Mong muốn về quyền và cải cách phải xuất phát từ chính người dân. Và ở Việt Nam, đúng là như vậy.

Nhưng trong một nhà nước công an trị đủ mạnh để dẹp tan bất đồng chính kiến – thật ra bộ máy an ninh hiện tại của Việt Nam được hình thành với sự giúp đỡ của cơ quan mật vụ Stasi Đông Đức và sự hỗ trợ của đảng Cộng sản Trung Quốc – những người bất đồng chính kiến rất cần sự quan tâm và giúp đỡ của chúng ta.

Những người bất đồng chính kiến như Phạm Đoan Trang, là người không thể thiếu trong việc giúp đỡ người dân Việt Nam hiểu các quyền hiến định của họ, cô là người đồng sáng lập một nhà xuất bản sách bị Nhà nước cấm, chuyên ấn hành các cẩm nang chính trị, trao quyền cho đồng bào của mình. Hoặc bà Cấn Thị Thêu, người mẹ đứng đầu một gia đình gồm các nhà hoạt động đất đai, đã bị bỏ tù, là người đã cùng tôi và Phạm [Đoan Trang] giúp dân Việt Nam bị chiếm đất, bằng cách lưu giữ tài liệu và công khai các vụ cướp đất bằng bạo lực của chính quyền, làm tài liệu đối chứng với báo chí do nhà nước kiểm soát.

Kế đến là Nguyễn Thuý Hạnh, là người đã hỗ trợ tài chính chủ yếu cho những dân làng đã bị tước quyền và gia đình của những người bất đồng chính kiến, huy động tiền đóng góp từ cộng đồng và thành lập các quỹ độc lập. Và Trần Huỳnh Duy Thức là người chủ trương cải cách chính trị ôn hoà, đã bị nhốt sau song sắt từ năm 2009; ông đã thực hiện nhiều vụ tuyệt thực, khiến ông hiện nay chết dần trên giường bệnh.

Có những người sẽ tạo áp lực của phó tổng thống lên các nhà lãnh đạo Việt Nam để phóng thích những người bất đồng chính kiến ​​như trường hợp khác của chủ nghĩa can thiệp của Mỹ. Nhưng quan điểm như vậy không chỉ làm Hoa Kỳ đi sai mục tiêu, phớt lờ tác dụng của chính những người Việt bản xứ đang bị bỏ tù vì đòi dân chủ; nó cũng là cách nhìn lịch sử thiển cận. Những hy vọng về nền dân chủ tự do như chúng ta biết, đã bắt đầu khởi động trước khi những đôi giày của Mỹ chạm đất. Trí thức Việt Nam được đào tạo ở phương Tây đã bắt đầu khuấy động, đòi các quyền cơ bản, tự do và bình đẳng khi Việt Nam còn là thuộc địa của Pháp hồi thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20.

Chính những khát khao về các quyền căn bản và tự do này vẫn tiếp tục cháy bỏng trong trái tim của những người Việt Nam bình thường. Tôi sánh vai cùng hàng ngàn người trong số họ vào cái ngày tôi bị bắt hồi tháng 6/2018, và tôi may mắn được gặp, nói chuyện và làm việc với nhiều người trong số họ những năm sau đó. Chính phủ Việt Nam công nhận tính phổ quát của những mong muốn này bằng cách ghi nhận những quyền cơ bản đó tại những Điều từ 14 đến 43 trong Hiến pháp của mình; đảng Cộng sản [Việt Nam] chỉ từ chối tôn trọng những điều đó.

Thật vậy, đối với Việt Nam việc bảo vệ các quyền tự do này là nền tảng, cũng như mối quan hệ đồng cảm tương thích của đất nước này với Hoa Kỳ. Bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam mà ông Hồ Chí Minh đọc năm 1945, có tham khảo phiên bản Mỹ của chúng ta. Bản tuyên ngôn viết: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm; trong những quyền ấy, là quyền được Sống, quyền Tự do và quyền mưu cầu Hạnh phúc“.

Nhưng định mệnh khiến xui, Hoa Kỳ đã phớt trước lời đề nghị giúp đỡ của ông Hồ Chí Minh hồi năm 1946, trong cuộc chiến đấu giành tự do từ tay người Pháp. Cuối cùng, ông [Hồ] phải nhờ Liên Xô và Trung Quốc hỗ trợ, và phần còn lại, như họ nói về lịch sử là điều đáng tiếc nhất. Xin đừng bỏ qua niềm mong mỏi của người Việt, một lần nữa khao khát được tự do.

Related posts