Mộc Trà
Càng gần Tết Nguyên đán, kiều hối về Việt Nam tăng mạnh. Chỉ riêng trong tháng giáp Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022, lượng kiều hối chảy về Việt Nam tiếp tục tăng mạnh do kiều bào có khoản tích lũy cả năm gửi về quê nhà cho người thân. Nguồn kiều hối năm sau cao hơn năm trước được coi như một thành tựu kinh tế trong nước. Tuy nhiên, góc khuất phía sau câu chuyện về những đồng tiền mồ hôi nước mắt người dân dành dụm gửi về quê hương là một câu chuyện đáng để suy ngẫm…
Thống kê chưa đầy đủ, hiện có gần 5 triệu người Việt đang sinh sống, học tập và làm việc ở hơn 100 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tổng thu nhập ước tính của người Việt khoảng trên 50 tỷ USD. Cho đến nay, có gần 4.000 dự án đầu tư của kiều bào với tổng số vốn xấp xỉ 20 tỷ USD.
Kiều hối: không chỉ là tiền làm thuê mà còn là tấm lòng ‘Lá lành đùm lá rách’
Kiều hối (remittance) về Việt Nam có hai nguồn chính: Một là từ cộng đồng hơn 5.3 triệu người Việt Nam định cư ở các nước phát triển Bắc Mỹ, Úc và châu Âu, hai là từ lực lượng người lao động Việt Nam ra ngoại quốc làm thuê ở Nam Hàn, Đài Loan, các nước Trung Đông và cả châu Phi. Hiện vẫn chưa có số liệu chính thức về số người ra ngoại quốc làm thuê, hay còn gọi là “xuất khẩu lao động”, nhưng một số nguồn tin ước tính rằng có khoảng vài ba triệu người.
Kiều hối từ cộng đồng người Việt định cư có thể lớn hơn nhiều lần so với từ nguồn xuất khẩu lao động, do điều kiện kinh tế tài chính khác nhau giữa hai thành phần này; nhưng dù từ nguồn nào thì dòng kiều hối đổ về Việt Nam vẫn tăng đều đặn, năm sau nhiều hơn năm trước. Đáng chú ý là trong hai năm dịch COVID-19, kinh tế các nước bị đình đốn nhưng lượng kiều hối gửi về Việt Nam vẫn tăng mạnh.
Cụ thể, Ngân hàng Nhà nước cho biết, kiều hối năm 2021 ước đạt 12,5 tỷ USD, tăng khoảng 10% so với năm 2020. Trong số đó, khoảng 70% lượng kiều hối được gửi qua các tổ chức tín dụng, 28% gửi qua các công ty kiều hối, 2% gửi qua bưu điện.
Trước đó, Ngân hàng Thế giới (WB) và Tổ chức Hợp tác quốc tế về người di cư (KNOMAD) dự báo, lượng kiều hối về Việt Nam năm 2021 ở mức 18,1 tỷ USD, đứng thứ 8 thế giới và đứng thứ 3 trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Các nhà quan sát nhận định rằng, trong thời gian đại dịch, người Việt định cư ở Hoa Kỳ gửi tiền, gửi quà cho thân nhân ở Việt Nam nhiều hơn thời trước đại dịch. Điều đó một phần do thông cảm với người thân trong nước đang khốn đốn, mất việc, mất thu nhập vì các biện pháp phong tỏa, “ngăn sông cấm chợ”, do hỗ trợ các tổ chức từ thiện ở trong nước; một phần vì trong thời gian dịch bệnh người định cư ở nước ngoài không về Việt Nam được nên không trực tiếp về thì gửi tiền và hàng để biểu lộ tình cảm. Ở Mỹ, các công ty làm dịch vụ gửi tiền, gửi hàng về Việt Nam cho biết lượng tiền và hàng gửi tăng gấp rưỡi so với năm trước. Có không ít người dành dụm những đồng tiền được chính phủ Mỹ trợ cấp trong thời gian đại dịch để gửi về giúp thân nhân ở trong nước.
Cũng như những năm trước, hàng chục tỷ USD kiều hối là một nguồn tài chính quan trọng, giúp tăng dự trữ ngoại tệ, ổn định cán cân thanh toán của chính quyền Việt Nam và duy trì tỷ giá hối đoái.
Thế nhưng trong dòng kiều hối này có cả những đồng USD được kiếm vô cùng khó nhọc. Rất nhiều câu chuyện đau thương nơi xứ người.
Nhưng đằng sau thành tích này còn là những giọt mồ hôi rất mặn…
Hiện công luận quốc tế đang rất nóng vụ hàng trăm công nhân Việt Nam bị cưỡng bức lao động cho công ty Trung Quốc ở Serbia. Cao uỷ Nhân quyền Liên Hiệp Quốc trong tuyên bố đưa ra hôm 21/1/2022, cáo buộc có hàng trăm công nhân Việt Nam bị bán sang Serbia để làm việc cho các công ty Trung Quốc, hiện đang kêu cứu vì phải sống và làm việc trong các điều kiện tồi tệ.
Từ cuối năm ngoái, các hãng tin quốc tế đã tường thuật việc có khoảng 500 công nhân Việt Nam – tham gia xây dựng một nhà máy lớn của hãng lốp xe Trung Quốc Shandong Linglong Tyre ở thành phố Zrenjanin, miền Bắc của Serbia – đang phải sống trong các khu nhà tạm không có máy sưởi và nước ấm, bị đói khát, không có tiền và cũng không được giúp đỡ.
Trước đó công luận cũng bàng hoàng trước việc hàng trăm người Việt Nam, chủ yếu là phụ nữ, cả trẻ em gái dưới 16 tuổi, phải đi làm người giúp việc nhà ở Saudi Arabia, một nước Hồi giáo khét tiếng khắc nghiệt với phụ nữ. Ở đó họ bị hành hạ, bị ngược đãi, bị bỏ đói, bệnh tật không được chữa trị, và bé H Xuân Siu (người Gia Rai ở buôn Tơ Yoa, xã Cư A Mung, huyện Ea H’Leo, tỉnh Đắk Lắk) đã chết tức tưởi trước khi được lên máy bay về nhà! Và dư luận đang đặt câu hỏi về việc liệu Chính quyền Việt Nam đã có những động thái gì để chấn chỉnh các công ty xuất khẩu lao động trong nước vô trách nhiệm như vậy với sinh mệnh của đồng bào?
Năm 2018, Walk Free công bố “Chỉ số tình trạng Nô lệ Toàn cầu” (Global Slavery Index). Theo đó, Việt Nam xếp thứ 77/162 về tình trạng công dân bị buộc làm nô lệ (bị khống chế, cưỡng ép lao động) cả bên ngoài lẫn bên trong Việt Nam. Ước tính cứ 1000 người Việt Nam thì có 4,5 người đang sống trong tình trạng bóc lột lao động.
Năm 2019, cộng đồng quốc tế rúng động trước sự kiện cảnh sát ở Essex – Anh phát giác 39 người Việt chết ngạt trong một container loại chuyên dùng chở hàng đông lạnh. Tuy 39 nạn nhân chết do tìm cách xâm nhập Anh Quốc bất hợp pháp nhưng dân chúng và chính phủ Anh chỉ thấy sốc khi 39 nạn nhân thảm tử chỉ vì hy vọng có được một cuộc sống tốt đẹp.
Đường về cũng thăm thẳm…
Thậm chí kể cả trong những “chuyến bay giải cứu” gần đây được tổ chức, thì hành khách phải mua “combo” trọn gói từ giá vé máy bay đến chi phí kiểm tra y tế và chi phí cách ly tập trung. Tuy được quảng bá rầm rộ là một “hoạt động nhân đạo” nhưng thực tế, những chuyến bay “giải cứu” này có giá trên trời, từ hơn 2.000 USD đến 5.000 USD mỗi hành khách, tức là cao gấp bốn đến tám lần mức giá vé máy bay thông thường. Để được “giải cứu”, người về còn phải trải qua rất nhiều thủ tục hết sức nhiêu khê và phi lý, chẳng hạn như phải xin được giấy đồng ý tiếp nhận của chính quyền địa phương nơi mình về, phải tới đại sứ quán xin xác nhận bản sao thẻ tiêm chủng, phải ghi danh với cơ quan ngoại giao và chờ đợi được sắp xếp chuyến bay.
Nản lòng với việc chờ đợi, hàng vạn người đã phải bay vòng về Cambodia rồi từ đó tìm cách nhập cảnh Việt Nam bằng đường bộ. Một cái vé máy bay của hãng Singapore Airlines từ California về Phnom Penh, Cambodia giá chỉ $650, trong khi giá vé “giải cứu” của Vietnam Airlines từ California về Sài Gòn thấp nhất là $1.850. Vì vậy dư luận không khỏi đặt câu hỏi liệu có hay không chuyện các công ty trong nước thông đồng với nhau để ăn trên lưng “kiều bào”? Và nếu có thì trách nhiệm của nhà nước là như thế nào? Ảnh minh họa: Xét nghiệm Covid-19 tại sân bay Nội Bài. (Ảnh: Getty Images)
Gần đây nhất, ngày 27-1, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an khởi tố vụ án “Nhận hối lộ” để xét duyệt cấp phép cho các công ty thực hiện chuyến bay đưa công dân Việt Nam từ nước ngoài về nước nhằm trục lợi cá nhân xảy ra tại Cục Lãnh sự, Bộ Ngoại giao.
Ngay cả khi chính quyền đã công bố cho mở lại đường bay quốc tế thì tình trạng trục lợi vẫn tiếp diễn: Giá vé từ nước ngoài về Việt Nam vẫn cao gấp hai, ba lần giá vé từ Việt Nam ra đi trên cùng tuyến đường. Ở đây lợi dụng tâm lý sốt ruột mong về nhà của người Việt xa quê, các hãng hàng không Việt Nam đã chặt chém không thương tiếc.
Bảo vệ quyền lợi của kiều bào cũng chính là bảo vệ an ninh kinh tế đất nước
Theo nguyên lý, chỉ tiêu thực sự có ý nghĩa với nền kinh tế là thu nhập quốc gia khả dụng (NDI) bằng thu nhập quốc gia (GNI), cộng thu từ chuyển nhượng hiện hành trừ chi chuyển nhượng hiện hành. Và đây là chỉ tiêu quan trọng nhất phản ánh nguồn lực của nền kinh tế là tiết kiệm (Saving).
Ở Việt Nam, kiều hối chiếm phần lớn trong chuyển nhượng hiện hành. Đây là khoản quan trọng giúp bù đắp sự mất mát do khu vực FDI chuyển tiền ra khỏi lãnh thổ Việt Nam. Việt Nam có thể phải vay nợ, thậm chí dẫn đến vỡ nợ nếu thiếu hụt lượng kiều hối này.
Điều này cho thấy, những người lao động dù chính thức hay không chính thức, đều đã đóng góp một phần rất quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam. Đây là những đồng tiền có giá trị quan trọng cho nền kinh tế bởi những người lao động Việt Nam ở nước ngoài, đã gửi những đồng tiền đẫm mồ hôi và nước mắt.
Trong nhiều trường hợp, người lao động Việt Nam gặp khó khăn khi tiếp cận quyền của mình tại nơi làm việc. Các khoản nợ do phí và lệ phí di cư lao động quá cao, có thể là trở ngại khiến người lao động không dám rời bỏ nơi làm việc có yếu tố bóc lột và bạo lực. Vì vậy, để bảo vệ những công dân của chính mình, cũng chính là để bảo vệ sự an toàn của nền kinh tế quốc gia, nhà nước cần quan tâm đúng mức đến việc bảo vệ quyền lợi của những người lao động xa quê, ít nhất, là để những đồng tiền gửi về cùng lắm chỉ dính mồ hôi, chứ ko dính cả máu và nước mắt của những người con đất Việt.
Mộc Trà