Trong những năm gần đây, Trung Quốc là nguồn sinh viên quốc tế lớn nhất tại Hoa Kỳ, Tuy nhiên, năm nay, tình hình đã thay đổi đáng kể, khi Ấn Độ vượt Trung Quốc trở thành quốc gia có số lượng sinh viên quốc tế tăng nhiều nhất ở Hoa Kỳ.
Theo tổ chức Chronicle of Higher Education đặt ở Washington D.C., từ tháng 5 đến tháng 8 năm nay, các lãnh sự quán Hoa Kỳ trên toàn thế giới đã cấp gần 282.000 thị thực F-1, tăng 2% so với cùng kỳ năm ngoái, và tăng 10% so với cùng kỳ năm 2019 trước khi đại dịch COVID-19 xảy ra.
Trong số đó, 84.000 thị thực F-1 được cấp cho sinh viên từ Ấn Độ, tăng gần 45% so với cùng kỳ năm ngoái, và tăng gần 1,5 lần so với số lượng được cấp cùng kỳ năm 2019.
Trong khi đó, chỉ có 47.000 thị thực F-1 được cấp cho sinh viên từ Trung Quốc trong bốn tháng này, giảm khoảng 40.000 thị thực so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo số liệu do tổ chức Opendoors cung cấp, số lượng công dân Trung Quốc du học tại Hoa Kỳ tăng 4,5 lần từ mức 67.800 sinh viên năm học 2006/2007 lên mức 372.000 sinh viên năm học 2019/2020. Tuy nhiên, năm học 2020/2021, số lượng sinh viên Trung Quốc đã giảm 15% xuống mức 317.000.
Cũng theo Chronicle of Higher Education, số lượng sinh viên Trung Quốc ở Mỹ tiếp tục giảm xuống còn khoảng 252.000, giảm thêm 20% so với năm học trước.
Ấn Độ là nguồn sinh viên quốc tế lớn thứ hai tại Hoa Kỳ trong những năm qua. Số lượng sinh viên Ấn Độ tại Mỹ đạt cao nhất là 200.000 người trong khoảng thời gian từ năm học 2017/2018 đến năm học 2019/2020. Số lượng này giảm xuống còn khoảng 168.000 sinh viên trong năm học 2020/2021. Tuy nhiên, vào tháng 9 năm nay, số lượng sinh viên Ấn Độ tại Hoa Kỳ tăng đột biến lên mức kỷ lục 241.000 người.
Tình hình tương tự tại các quốc gia nói tiếng Anh
Số lượng sinh viên Trung Quốc giảm trong khi số lượng sinh viên Ấn Độ tăng cũng là một xu hướng ở các nước nói tiếng Anh
Theo dữ liệu do chính phủ Anh công bố hôm 23/9, tại Anh, gần 487.000 thị thực giáo dục được cấp từ tháng 7/2021 đến tháng 6/2022, tăng 71% so với năm 2019 với 202.000 thị thực giáo dục được cấp. Năm 2019 là năm trước khi xảy ra đại dịch Covid.
Trong số 487.000 thị thực giáo dục này, 118.000 thị thực được cấp cho sinh viên Ấn Độ, tăng hơn 80.000 thị thực so với năm 2019, tức là tăng hơn hai lần. Trong khi đó, chỉ có 115.000 thị thực du học được cấp cho các công dân Trung Quốc, giảm 4% so với năm 2019.
Số liệu chính thức của Canada cho thấy, vào ngày 31/12/2021, Canada đã cấp 217.000 thị thực du học cho sinh viên Ấn Độ. Trong khi đó, chỉ có 105.000 sinh viên từ Trung Quốc được cấp thị thực này.
Úc cũng đang chứng kiến xu hướng tương tự, khi Ấn Độ vượt qua Trung Quốc trở thành nguồn sinh viên nước ngoài lớn nhất ở bang Victoria.
Trước đó hồi tháng 3/2020, khi bắt đầu đại dịch Covid-19, sinh viên Trung Quốc chiếm hơn 25% tổng số sinh viên quốc tế ở bang Victoria của Úc, trong khi Ấn Độ đứng thứ hai sau Trung Quốc với 24%.
Tuy nhiên, tháng 3 năm nay, tình hình đã đảo ngược khi Ấn Độ vượt lên dẫn đầu ở bang Victoria với 96.300 sinh viên quốc tế, chiếm 25% tổng số sinh viên quốc tế của bang này, trong khi đó Trung Quốc tụt xuống vị trí thứ hai, chỉ chiếm gần 20%.
Sinh viên Ấn Độ ở châu Âu cũng tăng
Hồi tháng 9 năm nay, trong cuộc phỏng vấn với giới truyền thông, một quan chức Ấn Độ tiết lộ rằng số lượng sinh viên Ấn Độ du học ở Đức tăng gấp ba lần trong bảy năm qua. Người Ấn Độ hiện là nhóm sinh viên quốc tế lớn thứ hai đăng ký vào các trường đại học của Đức. Hiện có 33.753 sinh viên Ấn Độ đang học tập tại Đức.
Tháng 5 năm nay, Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi và Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đưa ra tuyên bố chung, trong đó nhấn mạnh: “Nhận thấy lợi ích của việc di chuyển tự do sinh viên song phương, Pháp tiếp tục thực hiện mục tiêu 20.000 sinh viên Ấn Độ trước năm 2025, điều này sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mới, khởi nghiệp, và đổi mới giữa hai quốc gia.”
Các chính sách hạn chế hơn của Hoa Kỳ đối với sinh viên Trung Quốc
Tại Hoa Kỳ, đã có những đề xuất cấm các công dân Trung Quốc theo học sau đại học trong các lĩnh vực STEM (Khoa học, Công nghệ, Kỹ thuật, Toán học) và hạn chế những người tham gia Chương trình Nghìn Nhân tài của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Trước đó hồi tháng 5/2020, hai thượng nghị sĩ Hoa Kỳ đã đưa ra dự luật cấm các công dân Trung Quốc xin thị thực du học để nghiên cứu sau đại học trong các lĩnh vực STEM ở Hoa Kỳ. Tuy nhiên, dự luật này cũng cung cấp cho tổng thống Mỹ quyền miễn trừ an ninh quốc gia để sử dụng trong từng trường hợp cụ thể.
Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa Tom Cotton nhấn mạnh: “Đảng Cộng sản Trung Quốc từ lâu đã sử dụng các trường đại học của Mỹ để tiến hành hoạt động gián điệp tại Hoa Kỳ. Điều tồi tệ hơn là những nỗ lực của họ đã khai thác các lỗ hổng của luật hiện hành. Đạo luật SECURE CAMPUS sẽ bảo vệ an ninh quốc gia của chúng ta và duy trì tính toàn vẹn của doanh nghiệp nghiên cứu Mỹ.”
Tương tự, Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa Marsha Blackburn cảnh báo: “Bắc Kinh lợi dụng thị thực du học và nghiên cứu để đánh cắp bí mật khoa học, công nghệ, kỹ thuật, và sản xuất từ các tổ chức nghiên cứu và học thuật của Hoa Kỳ. Chúng ta đã cung cấp kỹ năng của Mỹ và tiền thuế của người dân cho cơn khát đổi mới của Trung Quốc trong thời gian quá dài. Đã đến lúc phải bảo vệ doanh nghiệp nghiên cứu của Hoa Kỳ chống lại hoạt động gián điệp kinh tế của ĐCSTQ.”
Tuy nhiên, dự luật này chưa được Quốc hội Mỹ thông qua.
Vào ngày 29/5/2020, Tổng thống Hoa Kỳ lúc đó là ông Donald Trump ban hành lệnh hành pháp nhằm cấm một số nghiên cứu sinh và học giả thỉnh giảng của Trung Quốc trong các lĩnh vực STEM vào Hoa Kỳ nếu họ có bất kỳ mối liên hệ nào với các tổ chức có quan hệ với quân đội Trung Quốc, nhằm ngăn chặn việc chuyển giao công nghệ và tài sản trí tuệ của Hoa Kỳ cho nhà nước Trung Quốc. Thông báo này bày tỏ quan ngại đặc biệt rằng một số nghiên cứu sinh và các nhà nghiên cứu sau tiến sĩ của Trung Quốc có thể dễ dàng bị chính quyền cộng sản Trung Quốc cưỡng chế trở thành “người thu thập” tài sản trí tuệ của Hoa Kỳ.
Sau đó, vào tháng 9/2020, Bộ Thương mại Hoa Kỳ thu hồi thị thực du học của hơn 1.000 công dân Trung Quốc theo lệnh hành pháp này của Tổng thống Trump.
Gia Huy (Theo The Epoch Times)