Tác giả: Laura Zhou
Cù Tuấn, biên dịch
9-4-2023
Tóm tắt: Hà Nội đang được cả Bắc Kinh và Washington ve vãn trong cuộc chơi quyền lực khu vực của họ. Các nhà phân tích cho rằng hợp tác an ninh giữa Mỹ và Việt Nam sẽ phát triển nhưng vẫn có giới hạn.
Khi Thủ tướng Trung Quốc Lý Cường bắt đầu cuộc điện đàm đầu tiên với các nhà lãnh đạo nước ngoài sau khi nhậm chức vào tháng trước, lãnh đạo Việt Nam nằm trong số những người đứng đầu danh sách.
Trong cuộc điện đàm với ông Phạm Minh Chính, ông Lý nhấn mạnh sự cần thiết phải tiếp tục “quan hệ láng giềng” giữa Trung Quốc và Việt Nam, nói rằng cả hai nước nên “tiếp tục có hành động cụ thể để thúc đẩy ổn định và thịnh vượng ở châu Á-Thái Bình Dương”.
Ngoại trưởng Trung Quốc Tần Cương trước đó cũng điện đàm với người đồng cấp Việt Nam Bùi Thanh Sơn với thông điệp tương tự.
Hoạt động ngoại giao này diễn ra sau một loạt mối quan tâm của Mỹ đối với quốc gia Đông Nam Á này, bao gồm thỏa thuận giữa Tổng thống Mỹ Joe Biden và Nguyễn Phú Trọng, người đứng đầu Đảng Cộng sản cầm quyền của Việt Nam, nhằm “thúc đẩy, phát triển và làm sâu sắc thêm” mối quan hệ. Cả hai nhà lãnh đạo cũng đã nhận lời mời thăm viếng lẫn nhau.
Các nhà quan sát trong khu vực cho rằng Việt Nam đang cân bằng các lợi ích của mình và trong khi dự kiến sẽ đẩy mạnh hợp tác an ninh với Mỹ, Việt Nam sẽ chống lại việc bị lôi kéo vào quỹ đạo của Mỹ để chống lại Trung Quốc.
Sự tiếp cận của Bắc Kinh đối với Hà Nội diễn ra khi cuộc cạnh tranh địa chính trị với Washington ngày càng trở nên thù địch và nhiều nước láng giềng – bao gồm các đồng minh của Mỹ như Philippines, Nhật Bản, Úc và Hàn Quốc – đã xích lại gần Washington như một phần trong những gì Bắc Kinh coi là chiến lược kiềm chế sự phát triển của Trung Quốc.
Việt Nam, với nền kinh tế đang phát triển nhanh và vị trí chiến lược trên Biển Đông, có tầm quan trọng đặc biệt.
Đến nỗi kể từ năm 2018, hầu như năm nào Mỹ cũng cử tàu tuần tra đến Việt Nam, và trong hai năm 2017 và 2021, Washington đã bàn giao cho Hà Nội 2 tàu tuần tra lớp Hamilton – từng là lớp tàu lớn nhất của Lực lượng Cảnh sát biển Mỹ. Một chiếc tàu tuần tra thứ ba đã sẵn sàng để được bàn giao vào năm ngoái.
Các tàu này là một phần của chương trình Excess Defence Articles của Mỹ, chương trình cung cấp thiết bị quân sự dư thừa cho các đối tác của Mỹ và các nước đồng minh để hỗ trợ các nỗ lực hiện đại hóa quân đội và an ninh.
Trong những tuần gần đây, các nhà ngoại giao cấp cao của Việt Nam và Mỹ cũng đã gặp nhau tại Washington để thảo luận về chính trị và an ninh, dẫn đến việc Mỹ tái khẳng định các cam kết giúp Việt Nam nâng cao năng lực hàng hải và thực thi pháp luật, theo Thông tấn xã Việt Nam.
Theo Collin Koh, thộc Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc phòng tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam, an ninh hàng hải là một lĩnh vực có khả năng phát triển.
Koh cho biết Cảnh sát biển Việt Nam đã vận hành nhiều loại thiết bị hơn so với quân đội của họ và đã tiếp xúc với các sáng kiến khu vực, tạo ra “nhiều cơ hội hơn trong hợp tác bảo vệ bờ biển” giữa Hà Nội và Washington.
Ông nói: “Do Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Mỹ muốn tăng cường sự hiện diện ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, bao gồm cả ở Đông Nam Á nơi họ đang mở rộng các hoạt động của mình, chúng ta có thể mong đợi sự hợp tác an ninh hàng hải nhiều hơn giữa USCG và các đối tác Việt Nam”.
Koh cho biết mức độ hợp tác an ninh hàng hải Việt Nam-Mỹ một phần được quyết định bởi mong muốn của Hà Nội là không liên kết và không liên minh với các bên thứ ba.
Zhang Mingliang, một chuyên gia về Đông Nam Á tại Đại học Tế Nam ở Quảng Châu, cho biết những nghi ngờ sâu xa của Việt Nam và tranh chấp lãnh thổ ở Biển Đông với nước láng giềng phía bắc đã thúc đẩy sự gia tăng hợp tác an ninh với Mỹ.
“Một bàn tay thì không thể tạo ra tiếng vỗ tay. Điều đó có thể hiểu được và được mong đợi”, Zhang nói, đồng thời nói thêm rằng Hà Nội sẽ đảm bảo rằng họ sẽ không khiêu khích “phương bắc quá nhiều”.
Carl Thayer, giáo sư danh dự tại Đại học New South Wales ở Úc, cho biết Hà Nội đang theo đuổi chính sách đa dạng hóa và đa phương hóa.
Theo Bộ Ngoại giao Việt Nam, ông Trọng nói với ông Biden rằng hai bên nên “thúc đẩy quan hệ”, làm dấy lên đồn đoán rằng hai nước cựu thù có thể nâng cấp quan hệ đối tác toàn diện – đã ký cách đây một thập kỷ – lên quan hệ chiến lược nếu các chuyến thăm của các nhà lãnh đạo cấp cao diễn ra trong năm nay.
Thayer cũng lưu ý rằng hợp tác quốc phòng và an ninh được liệt kê là một trong những lĩnh vực hợp tác trong quan hệ đối tác toàn diện năm 2013.
Nhưng ông Trọng cũng thể hiện sự tôn trọng với Trung Quốc bằng cách đến Bắc Kinh ngay sau khi Tập Cận Bình giành được nhiệm kỳ thứ ba chưa từng có với tư cách là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản.
Ông nói: “Chuyến thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Trọng vào tháng 11 năm ngoái đã đặt nền móng cho việc quay trở lại [xây dựng quan hệ] với Mỹ”.
Tuy nhiên, hợp tác an ninh của Việt Nam với Mỹ dự kiến sẽ không tăng lên đáng kể, ngay cả khi Washington mở rộng dấu ấn chiến lược của mình trên khắp khu vực để chống lại Trung Quốc.
Các nhà quan sát cho rằng Hà Nội khó có thể đi theo con đường của Philippines, quốc gia năm nay đã bật đèn xanh cho quân đội Mỹ sử dụng bốn địa điểm quân sự mới ở quần đảo Philippines, trong đó có một địa điểm gần vùng biển tranh chấp ở quần đảo Trường Sa.
Thứ nhất, Philippines là một đồng minh hiệp ước với Mỹ, được ràng buộc bằng một hiệp ước phòng thủ chung.
“Nhưng một hiệp ước như vậy không tồn tại giữa Việt Nam và Mỹ”, Koh nói.
“Ngay cả khi có mong muốn [hợp tác] từ phía Mỹ, thì cũng cần phải có cả hai bàn tay để vỗ tay với sự có đi có lại của Việt Nam”.
Zhang, thuộc Đại học Tế Nam, cho biết Việt Nam đang có sự cân bằng phù hợp trong hợp tác an ninh với Mỹ.
Zhang nói: “Quan hệ giữa hai quốc gia này sẽ không có một bước tiến lớn như Philippines, chứ chưa nói đến một bước tiến lớn, cho đến khi nó thực sự cần thiết”.