Liên Thành
Thời gian qua, những câu hỏi như “Có phải Hoa Kỳ và ĐCSTQ đang trong một cuộc Chiến tranh Lạnh mới?” hay “Liệu Washington và Bắc Kinh có thể tránh lặp lại những sai lầm của Chiến tranh Lạnh vừa qua?” đã thu hút sự quan tâm của ngoại giới.
“Giấc mơ Trung Hoa”, bao gồm sức mạnh kinh tế, sức hấp dẫn chính trị và địa vị của Trung Quốc, không những đã không lan rộng ra toàn cầu mà còn bắt đầu xói mòn. Một số chỉ số chính cho thấy Trung Quốc dễ bị tổn thương hơn bất cứ lúc nào trong thập kỷ qua, trước một cuộc xung đột lịch sử với Hoa Kỳ và tập thể phương Tây.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ lâu đã là một công cụ chính có ảnh hưởng quyền lực lớn, và nó cũng rất quan trọng đối với sức mạnh kinh tế của chính Trung Quốc.
Được thúc đẩy bởi chính sách “Go Global” vào năm 2001 và Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI) vào năm 2013, Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc đã tăng trưởng đều đặn, từ 10 tỷ USD năm 2005 lên hơn 170 tỷ USD vào năm 2017.
Theo Viện Doanh nghiệp Hoa Kỳ, đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc đã giảm 4 năm trong giai đoạn 5 năm kể từ đó, bao gồm cả mức giảm 15% vào năm 2022.
Đầu tư của Trung Quốc vào châu Âu cũng giảm mạnh. Trước đây, châu Âu là địa điểm ưa thích của vốn Trung Quốc do khả năng sản xuất có giá trị gia tăng cao và các quy định yếu kém.
Các đối tác từng háo hức như Đức, Ý và Liên minh châu Âu (EU) đã áp dụng hoặc tăng cường các cơ chế sàng lọc đầu tư và ngăn chặn các vụ thâu tóm quan trọng của chính phủ Trung Quốc.
Một hiệp ước đầu tư song phương nhằm giải quyết các khiếu nại lâu dài của các doanh nghiệp về các hoạt động bất đối xứng của ĐCSTQ đã bị Nghị viện Châu Âu đình chỉ trong bối cảnh Trung Quốc vi phạm nhân quyền lan rộng, và các biện pháp trừng phạt trả đũa đối với từng thành viên EU.
Ở một khía cạnh khác, đầu tư của châu Âu vào Trung Quốc tiếp tục giảm sau năm 2018, và không hồi phục cho đến năm ngoái. Tuy nhiên, như dữ liệu từ Rhodium Group cho thấy, dòng vốn FDI vào Trung Quốc đã trở nên tập trung dày đặc ở chỉ bốn quốc gia, chiếm gần 90% FDI của châu Âu vào Trung Quốc.
Tác động của đầu tư châu Âu, chiếm 7,5% GDP của Trung Quốc vào năm 2018, giảm xuống 2,8% ba năm sau đó.
Thách thức nghiêm trọng nhất đối với ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc đến từ Hoa Kỳ. Việc tăng thuế quan và các hạn chế được đưa ra dưới thời chính quyền Trump vẫn tiếp tục dưới thời ông Joe Biden.
Việc giám sát đầu tư nước ngoài, chủ yếu hướng vào Trung Quốc đã được mở rộng, cũng như chính sách cấm bán các sản phẩm công nghệ cao cho Trung Quốc, không chỉ được thực hiện bởi các công ty Hoa Kỳ, mà cả các công ty từ các quốc gia khác, miễn là sản phẩm của họ có chứa các thành phần của Hoa Kỳ.
Washington tăng cường nỗ lực ngăn chặn Huawei và TikTok, đồng thời thông qua luật trợ cấp cho các sản phẩm công nghệ cao được sản xuất trong nước tại Hoa Kỳ, và hướng đầu tư “gia công phần mềm thân thiện” tới các đồng minh và đối tác đáng tin cậy.
Là một gã khổng lồ về kinh tế, Trung Quốc có các lựa chọn thay thế, đặc biệt là ở châu Á, châu Phi và những nơi khác mà họ tuyên bố sẽ đưa ra các mô hình phát triển thay thế.
Tuy nhiên, ở những khu vực đó, sự hiện diện của Trung Quốc cũng đã mất đà. Khoản đầu tư hàng năm vào các quốc gia dọc theo sáng kiến Vành đai và Con đường, từng là công cụ hàng đầu của ĐCSTQ để mở rộng ảnh hưởng, hiện chưa bằng một nửa so với 5 năm trước, và phần lớn được đổ vào các quốc gia có vấn đề nợ nghiêm trọng.
Nhưng cần phải lưu ý rằng: ĐCSTQ có thể kết thân với bạn, thì họ cũng có thể mang đến cho bạn một khoản nợ.
Ở một số nơi, “mô hình” Trung Quốc của Bắc Kinh mang tính phá hoại hơn là xây dựng. Bắc Kinh đang buộc Sri Lanka bàn giao cảng Hambantota mà nước này xây bằng tiền vay từ ĐCSTQ.
Cách tiếp cận như vậy sẽ không thể nâng cao danh tiếng của Bắc Kinh với tư cách là người bảo vệ trật tự thế giới mới. Theo Trung tâm nghiên cứu Pew, dư luận ủng hộ ĐCSTQ trên khắp thế giới đã giảm mạnh. Sự suy giảm này được đẩy nhanh bởi “chủ nghĩa độc tài kỹ thuật số” của ĐCSTQ trong thời kỳ đại dịch Covid – 19, chính sách Zero Covid hà khắc gây bao thảm cảnh, cũng như sự ủng hộ của Bắc Kinh đối với cuộc xâm lược Ukraina của Nga.
Châu Âu nhìn chung ít quyết đoán hơn Hoa Kỳ. Tuy nhiên ở châu Âu, ĐCSTQ sắp đánh mất mối quan hệ chặt chẽ từng có. Tại hội nghị thượng đỉnh Trung Quốc-EU vào tháng 4 năm 2022, Chủ tịch Ủy ban Châu Âu Ursula von der Leyen đã thẳng thừng tuyên bố: “Là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, ĐCSTQ gánh vác những trách nhiệm đặc biệt. Công dân châu Âu không thể hiểu bất kỳ sự hỗ trợ nào của họ đối với các cuộc chiến do Nga tiến hành”.
Bà Leyen hoàn toàn đúng. Một bài báo vào tháng 2 năm 2023 từ Hội nghị An ninh Munich cho thấy trên toàn cầu, bao gồm cả Ấn Độ và Brazil, 2/3 số người được hỏi tin rằng việc ĐCSTQ ủng hộ cuộc xâm lược của Nga vào Ukraina khiến họ cảnh giác với tham vọng của Bắc Kinh.
Trong số các thành viên Đông Âu mới của EU, khuôn khổ “Trung-Đông Âu cộng” được Bắc Kinh ca ngợi đã thất bại khi ĐCSTQ hoan nghênh các hành vi vi phạm chủ quyền của Ukraina, và bắt nạt các quốc gia hơi nghiêng về Đài Loan, chẳng hạn như Litva.ĐCSTQ cũng mất một trong những đối tác thương mại và đầu tư quan trọng nhất ở châu Âu, là Ukraina. Tổng thống Zelensky của Ukraina đã có lúc muốn Ukraina trở thành “cầu nối của Trung Quốc với châu Âu”.
Nếu phá hoại cấu trúc liên minh phương Tây là một trong những mục tiêu của Bắc Kinh, thì mục tiêu đó giờ đây trở nên xa vời hơn bao giờ hết.
Ukraina và Moldova đã được thăng hạng thành các quốc gia ứng cử viên của EU, trong khi NATO mà Bắc Kinh coi là hiện thân thực sự của sự thống trị toàn cầu của phương Tây, đã có được sức sống, sức mạnh và tư cách thành viên mới trong các hành động của “người bạn thân nhất” của ông Tập Cận Bình là Matxcova.
Tồi tệ hơn từ quan điểm của ĐCSTQ, NATO giờ đây đã bao gồm cả các nước láng giềng của Trung Quốc trong lĩnh vực an ninh của mình. Năm 2022, NATO chính thức tuyên bố khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương là một phần trong “lợi ích an ninh chung” của tổ chức này.
Dưới thời Tổng thống Joe Biden, Hoa Kỳ đã nâng cao đáng kể tầm quan trọng của các sáng kiến chính sách trong khu vực, chẳng hạn như Đối thoại An ninh Bộ tứ, gồm Ấn Độ, Úc, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
Đồng thời, Washington đã có những hành động thiết thực, chẳng hạn như bán vũ khí hạt nhân để cung cấp năng lượng cho tàu ngầm của Úc, và bổ sung thêm các căn cứ của Hoa Kỳ ở Philippines, nhằm bảo đảm sự hiện diện mạnh mẽ hơn của Hoa Kỳ trong khu vực.
Ngay cả EU, vốn không phải là một liên minh quân sự, cũng đã thông qua mục tiêu chiến lược là bảo đảm một Biển Đông “cởi mở và dựa trên luật lệ”, bác bỏ hoàn toàn các yêu sách đơn phương của ĐCSTQ đối với gần như toàn bộ Biển Đông, và ủng hộ quan điểm này bằng hành động.
Trong tháng 4, quốc gia G7 duy nhất là Ý ký kết Sáng kiến Vành đai và Con đường, và từng là quốc gia cởi mở nhất đối với đầu tư của Trung Quốc, đã thông báo khai triển một trong hai tàu sân bay của mình tới khu vực, và xác nhận hợp tác với Nhật Bản và Anh. Họ đã đạt được thỏa thuận ba bên để phát triển và sản xuất thế hệ chiến đấu cơ mới.
Không có quốc gia nào cảnh giác với sự trỗi dậy của ĐCSTQ hơn Nhật Bản. Cố Thủ tướng Shinzo Abe là người đầu tiên đề xuất khái niệm hiện được chấp nhận rộng rãi về một “Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương tự do và cởi mở” như một đối trọng với ảnh hưởng của Bắc Kinh.
Gần đây, Nhật Bản đã tăng gấp đôi ngân sách quốc phòng, định nghĩa lại khái niệm “phòng thủ” và lựa chọn vũ khí mới với chất lượng cao hơn. Trong khi một số điều này là để đáp trả các hành động đe dọa của Triều Tiên, thì chiến lược an ninh quốc gia mới của Nhật Bản, được thông qua vào tháng 12 năm 2022, nói rõ rằng ĐCSTQ đại diện cho “thách thức chiến lược lớn nhất từ trước đến nay”.
Đối với Bắc Kinh, việc Hoa Kỳ và các nơi khác so sánh các hành động của Nga ở Ukraina với những gì ĐCSTQ có thể làm với Đài Loan là một bước phát triển mới và sâu rộng hơn mà Bắc Kinh không hoan nghênh, đó là một sự so sánh mà Bắc Kinh bác bỏ.
Thủ tướng Nhật Bản Fumio Kishida vừa trở về từ chuyến thăm cấp cao tới Ukraina cho biết: “Ukraina của ngày hôm nay có thể là Đông Á của ngày mai”. Sự cảnh báo rõ ràng ấy như một hồi chuông cảnh tỉnh.
Không phải mọi tin tức đều là tin xấu đối với ĐCSTQ. Ngoại thương Trung Quốc đang phát triển, bao gồm cả với Hoa Kỳ, đối tác số một của Bắc Kinh. Bắc Kinh đã ghi điểm bằng cách làm trung gian cho thỏa thuận gần đây giữa Ả Rập Xê út và Iran; Honduras đã đảo ngược quan điểm của mình (cắt đứt quan hệ với Đài Loan) và hướng sang Trung Quốc; và các nhà lãnh đạo châu Âu vẫn đến Bắc Kinh, mang theo một nhóm doanh nhân.
Tuy nhiên, môi trường quốc tế nói chung đang xấu đi, không ủng hộ ông Tập Cận Bình và ĐCSTQ, điều này cũng là yếu tố gây ra sự suy giảm mạnh trong tăng trưởng kinh tế Trung Quốc, có hậu quả từ các chính sách thảm họa về đại dịch Covid – 19 cũng như cuộc khủng hoảng dân số nghiêm trọng.
Khi một nhà lãnh đạo độc đoán cần sử dụng chủ nghĩa dân tộc để duy trì pháp quyền trong nước, ông ta cần những lời hoa mỹ và khoác lác. Nhưng các nhà quan sát bên ngoài không cần phải dùng những lời hoa mỹ khi đối mặt với bằng chứng ngược lại. Đây là điều mà các nhà hoạch định chính sách đang cố gắng bảo đảm rằng cuộc chiến tranh lạnh mới không leo thang thành một cuộc chiến tranh nóng.