Gần đây đã xuất hiện hai trường phái tư tưởng thú vị và gây tranh cãi liên quan đến vận mệnh của ‘siêu cường Trung Quốc’. Một bên cho rằng Trung Quốc đã đạt đến đỉnh cao và đang bước vào thời kỳ suy thoái chậm chạp mà có thể không còn khả năng phục hồi. Trường phái khác có lập trường ngược lại, cho rằng sự trỗi dậy của Trung Quốc vẫn tiếp tục và chưa đạt đến đỉnh điểm.
Tuy nhiên, một lập luận thuyết phục hơn nhiều là không có xu hướng nào, ngay cả khi chính xác thì cũng không có ý nghĩa nhiều về lâu dài, đặc biệt khi nói đến Trung Quốc và sự ổn định toàn cầu. Điều cốt yếu nhất vẫn là nhận thức của Trung Quốc về chính họ trước các cường quốc khác, đặc biệt là Hoa Kỳ. Nếu Trung Quốc tiếp tục coi mình là “nạn nhân” trong các vấn đề toàn cầu, thì họ có thể sẽ hành động vô trách nhiệm cho dù nước này đang trỗi dậy hay bước vào thời kỳ suy thoái một cách khách quan.
Hai giáo sư Michael Beckley và Hal Brands lần đầu tiên lập luận rằng “sự trỗi dậy của Trung Quốc đã hoàn tất và đất nước này hiện đang suy tàn” trong một bài tiểu luận đăng trên tạp chí Foreign Affairs hai năm trước. Họ lập luận rằng Trung Quốc đang phải đối mặt với 4 mối đe dọa lớn và ngày càng mở rộng phạm vi quyền lực cũng như ảnh hưởng của mình. Bốn mối đe doạ này bao gồm: suy thoái kinh tế nghiêm trọng, dân số đồng thời bị thu hẹp và già đi, môi trường xấu đi làm ô nhiễm không khí và nguồn nước của quốc gia.
Tệ hơn nữa, hành vi hiếu chiến của Bắc Kinh – chẳng hạn như ở Biển Đông hay đối với Đài Loan – đã tạo ra sự phản kháng đáng kể khi các quốc gia gần và xa Trung Quốc ngày càng trở nên thù địch với nước này và tìm cách “tách rời” họ khỏi Triều đại Trung Hoa, về cả về mặt kinh tế và công nghệ.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi ý tưởng coi Trung Quốc là “siêu cường đỉnh cao” đã gây ra phản ứng dữ dội của chính nước này. Một bài báo khác trên tạp chí Foreign Affairs của hai tác giả Oriana Skylar Mastro và Derek Scissors lập luận rằng Trung Quốc vẫn chưa trỗi dậy xong và Bắc Kinh vẫn còn nhiều thời gian và nguồn lực để cống hiến cho việc mở rộng cơ sở quyền lực trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt là quân đội. Cụ thể, họ cho rằng, “Năng lực quân sự của Trung Quốc sẽ được nâng cao hơn vào năm 2035″.
Đáng ngạc nhiên là không có trường phái tư tưởng nào mang lại “niềm an ủi” cho phương Tây, đặc biệt là Hoa Kỳ. Cho dù Trung Quốc là một quốc gia mạnh mẽ và tự tin khẳng định vị trí “chính đáng” của mình trong các vấn đề thế giới, hay một quốc gia bất an và đang suy tàn, muốn hành động trước khi trở nên quá yếu, thì không có kết quả nào khiến các quốc gia châu Á hoặc phần còn lại của thế giới mong muốn.
Điều này là do vấn đề cốt lõi không nằm ở chỗ liệu Trung Quốc có phải là một quốc gia – dân tộc (nation-state) ở thời kỳ sơ khai hay đã qua thời kỳ đỉnh cao hay không. Nó nằm ở niềm tin của Trung Quốc rằng họ là nạn nhân – một nạn nhân đã bị từ chối một cách bất hợp pháp vị trí xứng đáng của mình trong hệ thống quyền lực toàn cầu.
Việc Trung Quốc tự nhận mình là nạn nhân của hệ thống toàn cầu không phải là điều mới mẻ, nhưng tư tưởng này đã trải qua nhiều bước ngoặt thú vị. Theo cuốn sách “Never Forget National Humiliation: Historical Memory in Chinese Politics and Foreign Relations”, (tạm dịch Đừng bao giờ quên nỗi nhục quốc gia: Ký ức lịch sử trong lĩnh vực chính trị và quan hệ đối ngoại của Trung Quốc) của tác giả Zhen Wang, câu chuyện lịch sử chính thức về việc Trung Quốc trở thành “nạn nhân” hoàn toàn khác ngay sau khi thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1949.
Trọng tâm dưới thời Mao Trạch Đông là tư tưởng “Trung Quốc là người chiến thắng”. Năm 1949, nhân dân Trung Quốc đã “vùng lên”, phủi sạch những tủi nhục trong quá khứ và thiết lập một nhà nước đầy tự tin. Chủ nghĩa đắc thắng này thực sự khá phổ biến trong các chính phủ như nhà nước Trung Quốc, và sự hình thành của nó (ít nhất là trong mắt họ) thường đánh dấu “sự kết thúc của lịch sử”.
Ví dụ, Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc có rất ít triển lãm dành riêng cho lịch sử Trung Quốc sau năm 1949 và chắc chắn nó không đề cập đến những sự kiện khó chịu (ít nhất là đối với Đảng Cộng sản Trung Quốc) như: Đại nhảy vọt, Cách mạng Văn hóa hay cuộc biểu tình tại quảng trường Thiên An Môn năm 1989.
Lập trường này bắt đầu thay đổi vào đầu những năm 1990. Theo ông Wang, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) ngày càng lo ngại rằng những quan niệm ngoại lai như dân chủ, tự do tư tưởng và ngôn luận có thể “làm ô nhiễm” giới trẻ Trung Quốc. Do đó, mô típ “Trung Quốc là nạn nhân” – với sự kêu gọi trắng trợn chủ nghĩa dân tộc và hậu quả là bóp méo ký ức lịch sử – ngày càng trở nên nổi bật.
Thành kiến “chúng ta chống lại họ” (us-against-them) xuất hiện ở khắp mọi nơi, chẳng hạn như việc xây dựng các tượng đài và bảo tàng mới tưởng niệm những nỗi thống khổ của người dân Trung Quốc dưới bàn tay của quân Nhật trong Thế chiến II, hay các thuyết âm mưu cho rằng Mỹ cố tình đánh bom Đại sứ quán Trung Quốc ở Nam Tư cũ trong Chiến tranh Kosovo năm 1999.
Tất cả những điều này là một chuyện, nhưng khi câu chuyện “Trung Quốc là nạn nhân” này ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại và an ninh của Trung Quốc, lại là một câu chuyện đen tối hơn nhiều. Điểm mấu chốt nằm ở chỗ: quan hệ quốc tế là vì mục tiêu hòa hợp – nói cách khác, đó là một quá trình đàm phán, thỏa hiệp và nhượng bộ.
Tuy nhiên, các nạn nhân lại ôm giữ niềm tin cho rằng: vì họ đã phải chịu đựng thống khổ cho nên họ không cần phải nhượng bộ hoặc thỏa hiệp, đặc biệt là trước những kẻ bắt nạt thực tế hoặc trong tưởng tượng của họ. Thay vào đó, các nạn nhân phải được hưởng đặc ân và được đối xử đặc quyền.
Tư tưởng “nạn nhân” này, được thúc đẩy bởi “chủ nghĩa dân tộc dân túy” và “câu chuyện chính thức về sự sỉ nhục của phương Tây”, biểu thị một Trung Quốc có thể sẽ ít sẵn sàng ủng hộ hiện trạng hoặc theo đuổi các con đường hòa bình để giải quyết tranh chấp ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương.
Thay vào đó, nó ám chỉ một cường quốc khu vực ngày càng sẵn sàng sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để đạt được các lợi ích quốc gia của mình. Cảm giác trở thành nạn nhân này sẽ chi phối quá trình ra quyết định của ĐCSTQ, cho dù chính phủ Trung Quốc đang ở thời kỳ đỉnh cao hay đang trên đà phát triển.
Theo The Epoch Times
Huyền Anh biên dịch
Tác giả Richard A. Bitzinger là nhà phân tích độc lập về bảo mật quốc tế. Ông từng là thành viên cấp cao của Chương trình Chuyển đổi Quân sự tại Trường Nghiên cứu Quốc tế S. Rajaratnam (RSIS) ở Singapore; ông cũng từng đảm nhiệm nhiều công việc trong chính phủ Mỹ và tại nhiều tổ chức tư vấn khác nhau. Nghiên cứu của ông tập trung vào các vấn đề an ninh và quốc phòng ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương, bao gồm sự nổi lên của Trung Quốc như một cường quốc quân sự và các vấn đề về hiện đại hóa quân đội và phổ biến vũ khí trong khu vực.