Những nhân chứng sống sót của một thời thảm khốc

Từ Thức

10-9-2023

Vào năm gim tô, ông ni b bt giam. Ông b treo lên, đu dng xung đt. Sao li dng đu ông xung đt, sau này tôi hi m. M bo, đ cho ông có nut vàng vào trong bng thì nh ra. H dng đu ông như thế t sáng đến trưa, t trưa đến ti. Cho đến lúc không tra kho gì na thì tng vào tù.

Đó là một cảnh đấu tố trong cuốn “GIA ĐÌNH” của Phan Thuý Hà (Nhà Xuất bản Phụ Nữ Việt Nam), ra mắt năm 2020. Tác giả đi gặp, ghi lại lời kể của những nhân chứng còn sống sót thời Cải Cách Ruộng Đất kinh hoàng, đẫm máu ở miền Bắc, từ năm 1953 tới 1956.

ĐON ĐI NIÊN THIU, là cuốn thứ hai, cùng một đề tài, vừa được Hội Nhà Văn xuất bản ở Hà Nội (năm 2023).

Người đọc, dù đã biết, đã đọc những chuyện tàn khốc, man rợ về những cuộc đấu tố, sẽ sững sờ trước những sự kiện, những kỷ niệm sống, vượt xa sức tưởng tượng của những nhà văn giầu tưởng tượng nhất.

Hơn cả cái tàn ác, cái làm cho người đọc kinh hoàng là sự hủy hoại tình người, mà Tô Thuỳ Yên gọi là cái thương tn nng n cho nhân phm.

Gấp sách lại, người đọc tự hỏi: Tại sao con người có thể độc ác, tàn tệ với nhau đến như vậy? Nhất là đây không phải là nghĩa vụ “uống máu quân thù”.

Đối tượng không phải là giặc Pháp, cũng chưa có “Mỹ Nguỵ”. Đối tượng là những người láng giềng, cha mẹ, anh em, chiến hữu đã cùng nhau vào sinh ra tử, những người cùng chung và cùng đổ máu để xây dựng “thiên đường xã hội chủ nghĩa”, hôm trước là chiến sĩ gương mẫu, hôm sau bị quy là địa chủ bóc lột, vì có vài sào ruộng, một con trâu, một đàn gà. Hay chỉ vì một chút hận thù, ganh ghét cá nhân.

39 GIA ĐÌNH TAN NÁT

M tôi nói: Cha đy con. Cha con là ngưi  va b bt mt gii khăn đen kia. Cha git gii khăn đen ra: Tôi không có ti gì c. Đng Cng sn VN muôn năm. Ch tch HCM muôn năm (…) Bui chiu trưc ngày cha b bn, m đưa cơm cho cha. Cha ăn cơm xong, ngưi ta tr cái gi đng ni cơm cho m. M thy i đáy ni mu giy nhn ca cha: Ai ng vô ti mà chết oan. Âu cũng là s kiếp. Gng mà nuôi con. Sau này Đng có hi thì trình bày ti nơi ti chn (Gia Đình. tr.171).

Đây không phải là một cuốn sách hư cấu.

Dưới 2 cái tựa hiền lành, gần như lạnh lùng, tác giả ghi lại lời kể của các nhân chứng, không một lời bình luận. Những dự kiện trần truồng, không gói ghém, càng khiến cái man rợ, man rợ hơn.

Sự thực, cũng chẳng cần bình luận. Sự kiện, tự nó, nó nói. Khi cái man rợ lên tới tột độ, lời bình luận trở thành thừa thãi.

Gia Đình (274 trang) là chuyện của 19 người, Đon Đi Niên Thiếu (250 trang), 20, tổng cộng 49 nhân chứng, 39 gia đình tan nát.

Mỗi trang là một thảm kịch. Mỗi câu chuyện trong hai cuốn sách có cái tựa mang tên người kể chuyện: Lê Xuân Đài, Đặng Thị Dung, Đặng Văn Chương v.v…

Đoạn trích trên đầu bài là lời kể của nhân chứng Võ Tá Tạo (GĐ, trang 49-53). Ngoài ông nội, bị treo ngược đầu, sau đó chết vì bệnh, “bác Võ Tá Cnh, con trai c ca ông bà, chết trong trai giam. Có ngưi nói bác t vn (…). Anh chết, em phi thế mng. Cha tôi, Võ Tá Tân, phi đn ti thay Võ Tá Cnh. Cha v làng đ nhn án t hình thay thế bác Cnh (…). Trên qu đi trc, nhng bó đuc giơ lên. Cho mi nói mt li cui cùng vi bà con nông dân. Cha nói: Con thưa bà con nông dân, con là mt thng phn dân, phn đng, phn nưc, con xin ông bà nông dân tha ti bn cho conBa phát súng. nhà chúng tôi nghe rõ. Cha tôi gc xung”.

Trước khi xử tử, người ta quy tội. Có người bị hành hạ vì tội đã học tiếng Pháp, chắc chắn là để làm mật thám cho Tây. Có người bị kết án vì lý do ngớ ngẩn: Thằng Bản (địa chủ bị gọi là thằng, xưng con, bất chấp tuổi tác) chặt cây ngụy trang chỉ điểm cho giặc. Bởi vì có lần bà ta đi ngang ngõ thấy cha tôi bắc thang trèo cây, tỉa bớt cành lá (GĐ. tr.27).

Tội trạng như vậy, đủ để bị trói, bị quỳ trên sỏi đá, cho dân làng nhục mạ. “Bui chiu, tôi gp mt chiếc gi may vào phn đu gi chiếc qun cho cha qu đ đau but. Đa nào vay thêm vi này cho mày? D thưa, con Tư may. Lp gi đn sau chiếc qun b tháo ra. Đêm đó cha b qu lâu hơn, đá nhn dn lên đu gi sc hơn hôm qua (GĐ. tr. 28).

Cái đói, cái dã man hơn cả thú vật giữa người với người, cái nhục mạ, hành hạ thân xác, tinh thần những nạn nhân vô tội, và cái chết bi thảm, rùng rợn, của những người bị đạp ra khỏi xã hội hiện diện trên mỗi trang giấy.

Một xã hội chỉ có nhu cầu ăn cho no, sẵn sàng đạp lên xác người khác để có bát gạo. Trò giải trí duy nhất là đi coi, hay tham dự đấu tố, cái vui duy nhất là nhục mạ, giết người trước đó là anh em, láng giềng hay ruột thịt.

(Dưới mỗi đoạn trích trong bài này, xin viết tắt:là trích từ cuốn Gia Đình, ĐĐNT: Đon Đi Niên Thiếu).

CÁI TÀN ÁC MAN R

Bui chiu, tôi gp mt chiếc gi may vào phn đu gi chiếc qun cho cha qu đ đau but. Đa nào vay thêm vi này cho mày? D thưa, con tư may. Lp gi đn sau chiếc qun b tháo ra. Đêm đó cha b qu lâu hơn, đá nhn dn lên đu gi sc hơn hôm qua (GĐ. tr. 28).

Con đi bộ đội, một bà mẹ hiến đất, hiến của cho cách mạng: Chum, vi, đàn trâu bò m bán hết đ mua công trái quc gia, đóng thuế nông nghip.(…). M đưc tng bng Gia đình v vang. Con nhà ngưi ta b bt đi tù, b mang ra bn, con mình đưc bng khen. M bo tôi tìm cho m mt cái ng tre khô, cun tròn tm bng khen, ct vào ng tre, đ lên đu giưng. Mt đêm, m đang ng, dân quân gi ra hi quán. Hôm sau tôi mang cho m my c khoai, thy hai chân m b cùm, m khóc. Hơn tháng sau, dân quân gii m v, gi tôi ra qu cùng vi m. H ra lnh gì mi cũng dạ” (ĐĐNT).

Ngoài sân như hi trưng. Tiếng quát tháo, tiếng giành nhau đ đc. C qut dng lên t ngõ vào. M và bà ni b bt đi đâu không ai biết (…). Em tôi đói. Tôi cũng đói. Em l dn và chết bên cnh tôi. Ngưi ta đm đá vào lưng, vào gáy m. Ngưi ta ly báng súng tng lên lưng mẹ” (GĐ, tr.39).

CÁI CƯP GIT:

Đó là một xã hội cướp bóc, từ trên xuống dưới, công khai. Nhà nước cướp: a chưa kp phơi khô. Phi np hết. Gi là thuế nông nghip (ĐĐNT. tr.18). Thuế nông nghiệp, thuế khả năng và hàng chục thứ thuế khác. Nhiều người bị kết án tử hình sau khi đã cống hiến tất cả, nhưng vẫn chưa đủ.

“ Cha b bt đi qun hun. nhà, thnh thong m tôi b bt đến nhà mt c nông đ khai báo còn ct bao nhiêu vàng bc, lúa go. Còn gì mà khai báo. Vàng bc đã cúng hiến cho kháng chiến trong tun l vàng, lúa go đã cúng hiến cho chiến dch ba tháng góp go nuôi quân, mùa lúa cui cùng đã np hết cho thuế nông nghip” (GĐ. tr. 55).

Mặc dầu vậy, m tôi b trói c tay bng si dây x mũi trâu bò, treo lên cành cây bưi mé sân, chân không chm đt. Đàn con ngi trưc mt m, chng kiến m b treo lơ lng (GĐ. Tr. 56).

Bị nhà nước cướp sách, dân đói, cướp lẫn nhau.

Mang nhau ra sỉ vả, tra tấn, hành hạ hay chém giết chỉ để cướp một cái chiếu sạch, một cái nồi đồng: M dy nhóm bếp, b na ni chui cho vào niêu luc. Ánh la ht ra đưng, ct cán Hoe Năng đi tun phát hin, vào kim tra đang nu gì. Chui đâu ra (…). Tch thu, ca ni không phi ca mi. Hoe Vinh bê niêu chui trên bếp ln na ni chui chưa luc, mang đi” (ĐĐNT. tr. 34).

Cái cảnh cướp giựt, từ một miếng cơm, không biết nên cười hay nên khóc: C nhà ăn ba cơm đu tiên. Đang ăn, dân quân đng ngoài nhìn vào. M nhanh trí làm đng tác như đang húp cháo, nghĩ là ăn cháo, dân quân b đi” ( ĐĐNT. tr. 50).

“Trưc khi đi ng, tôi xếp mưi chiếc nón vào hai cái thúng. Sáng dy gánh đi ch h. Ra đu ngõ bn quân tch thu.Đây là âm mưu ca đa ch phân tán tài sn. Tng là chiến sĩ thi đua, đưc c trưng tôn trng, nay gp nhng chuyn vô lý như thế, tôi ut c, khó chu. Nhiu đêm không ng đưc, tôi nghĩ đến chuyn t t (ĐĐNT. tr.70).

Một người cha đi tù, chuyển lời về nhà: “Các con c đ cho h ly hết. Mt cái vung cũng không đưc giu. Các con c gi li th gì, ti cha to thêm th đó. Các con gi thêm mt đ vt, cha b kết tù thêm mt năm (GĐ. tr. 34).

CÁI ĐÓI:

Cái đói là một ám ảnh lớn. Trang sách nào cũng có chuyện ăn vỏ khoai, ăn lá cây, dành giựt nhau một nắm cơm, một bát cháo.

Bán 10 viên (ko vng), li 4 viên. Các cháu đói quá, ăn vng mt ca o, đang li thành l. Ch dâu làm bánh t, bánh ít đem ra ch. Ngưi ta xúm li bóc bánh ăn ri đi, không tr tin...” (ĐĐNT. tr. 18)

Làm vic c ngày, đưc ngh trưa mt tiếng đ ăn cháo. Ch nu ăn hôm đó dùng thùng thuc tr sâu đng cháo. Thùng chưa v sinh sch. My ngưi ăn b ng đc. H nghi tôi, con đa ch, b thuc đc vào ni cháo. Không ai ăn cùng mâm, không [ai] nói chuyn vi tôi” (ĐĐNT. tr. 20).

Đôi khi người đọc mỉm cười: Mẹ bị tố, cả nhà đói, người anh đi bộ đội gởi về tặng em một… trái mìn, để đánh cá. Mìn nổ trên mặt nước, chỉ chết vài con cá mương (ĐĐNT. tr.36).

CÁI S:

Cai trị bằng cái sợ là một chính sách, một lý thuyết chính trị của Lénine, được Staline, Mao, Pol Pot và những đệ tử Việt Nam trung thành áp dụng triệt để.

Sợ từ khi còn ngồi ghế nhà trường: “Lúc nào cũng mang ni s. S mà không biết s gì (GĐ. tr. 42).

Văn đ t, phi chn gia 3 đ, đ 2: Bình lun mt câu ca Trưng Chinh, đ 3: Phương pháp t ngưi ca Nguyn Du. C lp làm đ 3. Di chi làm đ kia, viết h hênh mt câu mt lp trưng là nguy (ĐĐNT. tr.21).

Cái sợ bám vào nạn nhân suốt đời, như một người cao tuổi, trong Gia Đình, tới nay vẫn không dám thắc mắc một chuyện gì:

Quá na đêm, dân quân không canh na, tôi vn s. Tôi đã tiu ra qun. Ni khiếp s năm mưi lăm tui. Nay tám mươi hai, tôi vn là mt ông già s hãi. Tôi không dám thc mc mt chuyn gì. Mun viết đôi điu cho con cháu biết v cha ông mình, cm bút lên tôi li run.

CÁI CHT:

Hậu quả của sự tàn bạo là cái chết. Chết vì bị treo cổ, treo đầu nón chân, bị đánh đập, tra tấn, vì đói, vì tự tử.

– “Chị ngồi tựa lưng vào gốc cây dối, dải yếm trễ xuống, thằng con như con nhái bén vẫn đang nhay vú mẹ. Lúc đó chị đã chết rồi mà tôi không biết” (ĐĐNT. tr. 41)

– “Bà ni chết vì rét hay vì đói. T hôm b trúng viên gch thng K, bà nm mt ch. Ba năm sau bc m bà, thy hai chiếc xương sưn b gy” (GĐ).

HUN LUYN CĂM THÙ:

Người ta tự hỏi: Tại sao những người nông dân, vốn hiền lành, đã trở thành ác quỷ?

Con người có thể trở thành thánh, hay thú vật, tuỳ môi trường sống, tuỳ giáo dục. Lịch sử đã chứng minh điều đó, với xã hội Đức dưới thời Hitler, Nga dưới Stalin, Tàu dưới Mao, Cao Miên dưới Pol Pot. Việt Nam không phải là một ngoại lệ, nếu điều đó có thể an ủi người Việt.

Tất cả trò đấu tố đều học của Tàu, cố vấn Tàu sang dạy cách xử án, quy định tỷ số địa chủ phải mang ra làm thịt.

Đó là một xã hội xây dựng trên sự căm thù, được dạy dỗ, tập luyện từ nhỏ, từ ghế nhà trường:

– “Thy giáo nói hôm nay ngh hc đ ti đi đu đa ch Xen vào nhng bui đi hc bình thưng là nhng bui ngh hc đ ti đi d đu t. Hc sinh đến trưng tp trung. Mi em mt bó đuc, va đi va hô. Tôi cũng hô to không thua gì các bn“ (ĐĐNT. tr.64).

Tm bin Đa ch dng trưc sân. Tôi ht đi thì hôm sau thng bn hc cùng trưng đến dng lên. Trưc đây nó cùng đi thiếu niên, tôi liên đi trưng, nó liên đi phó (ĐĐNT. tr. 49).

Được dạy dỗ như vậy, bọn trẻ thơ ngây trở thành ác quỷ. Có lẽ cái giết sự ngây thơ, trong trắng của tuổi thơ, nó còn ghê rợn hơn cả chuyện giết người.

– ”Bị đuổi dạy, thầy giáo Banh nấu nước chè xanh đi bán ở các làng khác, khi về đến đầu làng bị nhóm trẻ con xúm vào đập vỡ hết bát, ném xuống sông, thầy ngồi khóc trên cầu” (ĐĐNT. tr.87).

Ê con đa ch, con đa ch. My đa lao vào tôi. Bn con gái không đánh đưc thì git tóc, gõ đu, cu véo. Tan hc là tôi chy. C đám rưt đui. Đui theo v đến nhà. Đánh chết thng con đa ch này (GĐ tr.41).

NHC M

Giết người chưa đủ, đánh tan nát gia đình nạn nhân chưa đủ, chia nhau từng cái chổi cùn chưa đủ, còn phải nhục mạ người sống, người chết: ‘’n ca bác đã là vưn ca nông dân. Không đưc chôn đa ch trong vưn nông dân (GĐ. tr.23).

Có lẽ cái nhục mạ nạn nhân, cái thú man rợ khi tước đoạt luôn nhân phẩm con người chỉ có dưới chế độ Cộng Sản, đặc biệt là Cộng Sản Tàu và đàn em.

Dưới những chế độ độc tài khác, thường chỉ có cái ác.

SA SAI

Năm 1957, Đảng nhận lỗi, sửa sai. Nhưng lỗi là lỗi của những phần tử quá khích. Đảng không thể có lỗi. Tại trường học, những ông hiệu trưởng, giáo viên trước đây được khen ngợi đã thành công trong việc giúp học sinh đấu tố nhau, bị kết tội do địch gài vào để phá hoại.

Nhà nước xin lỗi, thế là xong, yên chuyện, ai về nhà nấy, như không có chuyện gì xẩy ra. Như có người vô tình chạm vào tôi ngoài đường, xin lỗi. Dạ, không có chi.

Dù sao, chuyện Đảng công khai xin lỗi cũng cho phép gia đình nạn nhân được khóc công khai những người đã bỏ mạng. Và cho phép rất nhiều tác phẩm về cải cách ruộng đất ra đời mà tác giả không đi tù hay mất mạng.

Mặc dù vậy, cái sợ hình như vẫn đâu đó.

Đại tá nhà văn Phan Kế Toại, đề tựa cho cuốn Gia Đình, đề cao việc làm của tác giả, coi trọng việc đi tìm sự thực, không quên thòng một câu, cho chắc ăn: “Mi ngưi cn chung tay c gng trân trng s đi mi, gìn gi thành qu dân ch đ đt nưc không bao gi tr li thi k u trĩ như thế na.

Thành qu dân ch! Câu kết luận politically correct không khỏi khiến người đọc mỉm cười, khi nghĩ đến thực trạng Việt Nam ngày nay về nhân quyền, về tự do báo chí, tự do tín ngưỡng…

Trong cùng một bài tựa, ông Toại kể: “Trong gia đình tôi (…), nhiu ngưi đã b quy đa ch, phú nông hoc phn đng. Ngưi b tch thu tài sn, ngưi t vn, ngưi b bt giam, b cùm chân, ngưi b x t. Dùng chữ “ấu trĩ” cho một xã hội lở lói khủng khiếp như vậy, có lẽ hơi nhẹ.

Bao nhiêu người là nạn nhân của “cách mạng?” Theo BBC, nhà nghiên cứu Mông Cổ Balazs Szalontai khai thác các tài liệu Đông Âu và Liên Xô, đưa ra con số 7,7 triệu người dân và hàng trăm gia đình “buc phi tham gia và chu h luỵ” chỉ trong đợt giảm tô. Trong đợt chính thức Cải cách Ruông đất, 4 triệu người chu tác đng. Tác giả Hoàng Minh Chính đưa ra con số nửa triệu người (5% dân số miền Bắc) bị chính quyền VNDCCH giết.

Riêng Cải cách Ruộng đất, theo Bernard Fall, 50.000 người bị xử tử, ít nhất gấp đôi bị tù cải tạo (BBC 3/2/2022) (2).

Le Livre Noir du Communisme (S Đen ca Ch Nghĩa Cng Sn) do sử gia Stéphane Courtois chủ biên, cũng đưa ra con số 50.000 người bị xử tử, từ 50.000 tới 100.000 người bị đưa đi tù cải tạo (3).

Le Livre Noir là một cuốn sách dày 662 trang, do các sử gia, ký giả, giáo sư Pháp biên soạn, tố cáo những tội ác của Cộng Sản quốc tế, với 100 triệu nạn nhân đã bỏ mạng để xây dựng “XHCN”.

ALEXIEVITCH và NGÀY TÀN CA NGƯI Đ

Đọc Phan Thuý Hà, người ta nghĩ tới việc làm nhà văn Nga Svetlana Alexievich. Sinh năm 1948, cha người Biérusse, mẹ người Ukraine, Alexievich, trong gần 40 năm, với cây bút và máy ghi âm, đi gặp và ghi lại lời kể, tâm trạng của người Nga sau tại nạn Tchernobyl, sau ngày Nga – Xô Viết sụp đổ, trong cuộc tham chiến của Nga ở Afghanistan (1).

Trong Les Cercueils de zinc (Nhng chiếc quan tài bng km1990), bà ghi lại tâm trạng của những bà mẹ, bà vợ, có chồng con chết ở Afghanistan, để thoả mãn tham vọng của Putin. Những xác chết từ mặt trận được chở về trong những chiếc quan tài bằng kẽm (zinc).

Bà viết: “Cái can đm chiến đu ca ngưi Cng Sn ch là huyn thoi. Chng có anh hùng gì c, ch có nhng ngưi lính tr bng gt, đưa đi làm mi cho đi bác, b khng b, phi tiếp tc vì s”.

Cuốn sách nổi tiếng nhất của Alexievich, “La Fin de lhomme rouge. Le temps du désenchantement (Cái chết ca ngưi đ. Thi gian v mng), được nhiều nhà phê bình coi là cuốn sách hay nhất, quan trọng nhất trong năm 2013), vạch rõ thực chất của người Cộng Sản (người đỏ), cái ảo tưởng xây dựng xã hội đại đồng, sự thực chỉ là một cuộc lừa gạt đẫm máu để nắm quyền.

Sau khi Nga Xô Viết sụp đổ trong 3 ngày, như đã lên nắm chính quyền trong 3 ngày, để viết La fin de lhomme rouge, Svetlana Alexievich đi khắp nước Nga, nghe tâm sự của những người vỡ mộng về ảo tưởng thế giới đại đồng, lạc lõng trong một thế giới mới, xa lạ.

Bà nói, “có l cái thành công duy nht ca ngưi Cng Sn là đã hu hoi nhân tính, đ to nhng ngưi Nga mi, không còn nhân phm”.

Alexievich nói, trong một cuộc phỏng vấn, dụng ý của bà là qua những nhân chứng thực để tạo những tác phẩm văn chương.

Mc đích ca tôi không phi làm điên đu ngưi đc vi nhng chuyn kinh hoàng, nhưng rút ta ý nghĩa t nhng cái kinh hoàng đó. Và giúp con ngưi tiếp tc còn là con ngưi. Làm biến dng con ngưi, đó có l là cái duy nht đã thành công ( Nga Xô Viết). (Mon objectif nest pas dassommer (les lecteurs) par toutes les horreurs que j’écris, mais den extraire du sens. Et de permettre à lhumain de rester humain.Transformer lhomme. Cest peut être la seule chose qui ait marché).

Alexievich đoạt giải Nobel Văn chương năm 2015 cho toàn bộ tác phẩm của bà.

Phan Thuý Hà không có tham vọng đó. Bà chỉ ghi lại lời kể chuyện của những nạn nhân còn sống sót.

Tác giả “Đon Đi Niên Thiếu viết trong lời tựa: “Sáu năm qua, viết sách, tôi đưc gp [ngưi] nhiu tui quê Nghnh. Các ông bà đu tui trên tám mươi, chín mươi. Hcon ca nhng ngưi yêu nưc, tham gia cách mng, b Pháp bt tù đày vào năm 1930-31, ln lên trong nhng năm kháng chiến (…). Vi nhng gì h tri qua, nếu không ghi li thì tiếc quá”.

Gia Đình, Đon đi niên thiếu là những cuốn sách nên dịch ra ngoại ngữ, để những người ngoại quốc, hay thế hệ người Việt trẻ hiểu rõ thực trạng Việt Nam, hơn là những cuốn sách của những người chưa bao giờ đặt chân tới xứ này, hay chưa hề sống trong hoả ngục.

Cũng như những tác phẩm của Alexievich nên dịch ra tiếng Việt, để thức tỉnh những người, ở thế kỷ 21, vẫn còn là những ông già ngồi đan rổ, mơ nước Nga, như trong thơ Tố Hữu.

Cũng hy vọng sẽ có nhiều cuốn sách tương tự, ghi lại chuyện thực, của những người di cư 1954, những nạn nhân tết Mậu Thân, của boat people, hay những ngày miền Nam, trước và sau 1975.

CHUYN CN LÀM

Đã có rất nhiều sách, báo về những chuyện này, nhưng vẫn chưa đủ. Cần một tài liệu đồ sộ ghi lại các nhân chứng.

Tôi nghĩ tới chuyện này, cách đây mấy chục năm, khi viếng thăm một thư viện ở Do Thái, nơi tập trung hàng trăm ngàn sách, băng nhạc, ghi âm lời kể của những nạn nhân, hay gia đình nạn nhân Shoah còn sống sót.

Ngày nay, nhiều người Việt đã thành công ở hải ngoại, dư tài chánh, có dư khả năng làm việc đó, thay vì làm những chuyện tào lao. Thí dụ tài trợ cho những nhóm trẻ đi phỏng vấn, thu thập dữ kiện ở tất cả những nơi người Việt tỵ nạn cư trú.

Đó là chuyện khẩn cấp. Bởi vì nhiều nhân chứng cao niên đang lần lượt ra đi.

Việc làm của Phan Thu Hà, hay những việc làm tương tự, sẽ là những chất liệu quý cho những người sau này muốn viết văn, viết sử hay nghiên cứu về Việt Nam cận đại.

Nếu không, thế hệ sau này sẽ không biết gì về quá khứ. Nếu muốn tìm hiểu lịch sử đất nước chỉ có sách vở của những người muốn viết lại lịch sử, hay những người ngoại quốc, nói chuyện VN dưới lăng kính chính trị hay bác học, không có chất liệu sống.

Không ghi li thì tiếc quá.

_________

Chú thích:

(1) Tên ngưi, tên tác phm, đa danh trong bài này viết theo kiu Pháp.

(2) https://www.bbc.com/vietnamese/vietnam-59896978

(3) Le Livre Noir du Communisme. Ed Robert Laffont, Paris 1997

Related posts