Khóc một người vừa nằm xuống hay khóc cho những ai đã đi về bên kia quê hương hơn nửa thế kỷ qua?

Nguyễn-Khoa Thái Anh

Hồi hương được gần 20 năm nay, sống và qua đời hồi cuối tháng 11 ở Hà Nội nơi anh yêu dấu, nhưng chẳng mấy người ở Việt Nam, ngay cả ở Hà Nội được biết đến Nguyễn Quí Đức, một nhà văn, nhà báo, dịch giả và phát thanh viên, tên tuổi nổi cồn với báo chí và truyền thông Mỹ và Tây phương.

Hôm thứ Bảy, 20 tây tháng Giêng, 2024, đài truyền hình và phát thanh KQED ở vùng Vịnh San Francisco đã tổ chức một buổi họp mặt thân mật và trọng thể, mời nhiều người mặt mũi trong ngành truyền thông, cùng với bạn bè, những người thân, những người hâm mộ đến để tưởng nhớ và chia sẻ nhiều điều về anh. Vì cũng chính nơi đây, KQED, anh Nguyễn Quí Đức đã làm việc và khai phóng Chương trình phát thanh Pacific Time từ năm 2000 cho đến 2006, trước khi anh từ bỏ tất cả để đưa người mẹ cao tuổi về Hà Nội sống với mình.

Cách đây gần một thế kỷ, ông ngoại anh, cụ Nguyễn-Khoa Toàn, quan chức Nam triều (tỉnh trưởng Thừa Thiên) chuyển ra Bắc đảm nhiệm Bộ trưởng Bộ Giáo dục, Thông tin ở Hà nội – và cũng chính nơi đây, ông đã gặp mẹ người viết, một nàng Kiều của Hà Nội, danh hiệu Giáng Kiều(*), một thời vang bóng. Thời gian này bà đến xin ông giấy phép để xuất bản tuần báo Tribune de la Femme (báo Phụ nữ Diễn đàn sau này). Không lâu sau ông thành hôn với mẹ của tác giả để 5 năm sau Hà nội nhớ bóng dáng một nàng tiên (mượn ca từ của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn) khi họ vào Nam trước năm Hiệp định Genève chia đôi đất nước ở vĩ tuyến 17.
Năm 1949 ông cũng mời con rể ông là Nguyễn văn Đãi, cha của Nguyễn Quí Đức ra làm Đổng lý văn phòng cho ông tại Hà Nội, thành phố ngàn năm văn vật, một thời vang bóng và tao nhã nơi bố mẹ Nguyễn Quí Đức thụ hưởng những năm hôn phối hạnh phúc. Không ngờ ba phần tư (3/4) thế kỷ sau, cậu quý tử Nguyễn Quí Đức đã về Hà Nội mở một phòng trà có tên gọi là TaDioTo (Ta Đi Ôtô) ở Hà nội, nơi hội tụ của nhiều tao nhân mặc khách, trên văn đàn cũng như trên chính trường, từ các nhà ngoại giao cũng như các chính khách Tây phương cho đến nhiều văn nhân nghệ sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ và kịch sĩ, họ đã đến thăm anh, Tadioto, và Hà Nội, gián tiếp mang lại tiếng tăm cho Hà thành.

Không biết bao nhiêu người khi nghe tên Nguyễn Quí Đức sẽ được biết cha anh, bút hiệu Hoàng Liên, đã bị Cộng sản bắt năm 1968 ở Huế và giải về miền Bắc, giam hãm ông suốt 12 năm trời, trong đó có 9 năm biệt giam. Tội của ông: làm việc cho chính thể Việt Nam Cộng hòa.

Hôm thứ Bảy, trong buổi tưởng niệm Nguyễn Quí Đức ở KQED, chúng tôi nghe những thước phim, những đoạn ghi âm, khi anh được hỏi: cha anh đã bị cầm tù 12 năm, anh vẫn về Hà Nội sống? Anh nghĩ gì? Đức trả lời: Nếu cha tôi không oán hận Hà Nội thì mắc gì tôi phải ấm ức? Đức cũng thú nhận trước đây anh chỉ biết đến Hà Nội như một thời vang bóng qua sách vở, qua văn thơ và đó có lẽ cũng là lý do thúc đẩy anh về Hà Nội. Không hiểu qua những năm tháng sau cùng ở Hà Nội, Đức nghĩ gì về “lớp người đổi mới khác xưa” (Đoàn Chuẩn: Gởi người em gái miền Nam). Sau đây, xin phác họa sơ qua về chân dung Nguyễn Quí Đức.

“Tuần này cậu yêu ai?”

“Cái chi?” Bị chơi một cú bất ngờ, tôi lắp bắp. “Nói chi lạ hề?”

“Tuần ni cậu yêu ai?” Đức lặp lại lời trêu chọc của mình một cách tỉnh bơ, khiến đám bạn thân và những người thân thích bật cười khi họ ở gần bên. Thành thực mà nói, đến bây giờ tôi cũng chưa khẳng định được ai là người đa tình hơn. Tôi muốn hỏi: “Đức đang yêu ai?” Yêu ai không ở lại mà lại ra đi sớm rứa Đức?” “Đức, es tu entrain de mourir d’aimer?”

Xin thú thật, mặc dù Nguyễn Quí Đức là cháu nhưng đương sự chính là 1 phiên bản mà tôi mong muốn, một người mà tôi luôn ngưỡng mộ. Chúng tôi mến nể và tôn trọng nhau không ít, vẫn thích cạnh tranh ngầm như kiểu anh em ruột thịt tranh đua với nhau một cách nhẹ nhàng hơn, nhưng đó là một mối tương quan phải thừa nhận là không cân xứng, vì lúc nào Đức cũng dẫn đầu, về thanh danh cũng như thành tích.

Khi Dương Thu Hương xuất hiện tại Thư viện chính của thành phố New York (ngày 30 tháng 4 năm 2006), trong một buổi trò chuyện với nhà văn Robert Stone và một tác giả người Pháp, ô. Antoine Audouard, người điều hành buổi nói chuyện, tên tôi nằm trong danh sách thông dịch viên nhưng rốt cuộc Đức đã được chọn.

Có lẽ vì thương hại hoặc vì tử tế, khi Dương Thu Hương tự cho mình là “giặc,” bị lúng túng nhất thời trên sân khấu, Đức liếc mắt xuống hàng ghế khán giả thứ hai nơi tôi đang ngồi:

“Cậu Thái, ‘giặc’ tiếng Anh gọi là gì?” Tất nhiên, ‘rebel’ là “giặc” hoặc người nổi loạn.

Nhưng không giống James Dean, Đức không bao giờ là kẻ nổi loạn không có chính nghĩa, anh đã vạch ra con đường của mình từ rất sớm, có lẽ không cần kịch bản, nhưng là kẻ nổi loạn theo đúng nghĩa của nó, Đức đã đạt được nhiều thành tích hơn dựa theo phong cách mà một người lập kế hoạch cẩn thận thích chọn lối đi nhưng vẫn có thể sẽ thất bại trong cuộc sống có nhiều cạm bẫy.

Một kẻ nổi loạn, một kẻ lập dị sở hữu nhiều khôn khéo của một nhà ngoại giao giỏi, một bản chất tự nhiên mà Đức có thể được thừa hưởng từ ông ngoại, vị Đại sứ đầu tiên của Việt Nam thời lập quốc. Theo thuyết truyền thống, không nhất thiết đến từ cả hai dòng máu của Đức, một đặc tính phải đạo có lẽ đã hun đúc ở anh một lòng dũng cảm không hề nao núng để thúc đẩy Đức vào những nơi mà kể cả những người can trường cũng cảm thấy chùn bước, nhưng có lẽ mọi người Việt Nam đều có thể khẳng định rằng mình dòng giống con Rồng cháu Tiên từ hàng chục nghìn năm bất khuất của tổ tiên đã khiến họ trở thành những kẻ sĩ thức thời.

Cách đây khoảng 20 năm, Đức từng nói với tôi: “Nhà là nơi ta treo mũ”, chưa dứt lời, Đức vội kết luận: “nhà là nơi ta được sống thoải mái.” Một con người 2 đất nước, Hoa Kỳ và Việt Nam, Đức chọn về quê hương sống và đánh giá cho tiêu chí lý tưởng của Mỹ và niềm hy vọng (vẫn là hy vọng và mong ước sau 24 năm sau) của Việt Nam, một lưỡng tính sẽ mang lại hữu ích cho một người Việt-Mỹ trong cuộc sống.
Nhớ khi kể chuyện thi vào quốc tịch Mỹ, bà phỏng vấn văn phòng nhật tịch hỏi Nguyễn Quí Đức nhiều câu để thẩm định mức hiểu biết của anh về Hoa Kỳ.
“Ai là người thêu lá cờ Mỹ thời mới lập quốc?” (Betsy Ross)

Bí quá Đức xỏ tay vào túi quần jean, nhận ra là quần bò có nhãn hiệu Calvin Klein, anh nói:

“Calvin Klein thêu lá cở Mỹ đầu tiên, ông ta thiết kế đủ thứ thời trang mà. Đúng là Clavin Klein rồi.”

Bà phỏng vấn phá lên cười ha hả. “You’re good! Very good! Very smart and charming! You passed. Anh giỏi quá, Rất giỏi. Thật thông minh và có duyên. Đậu rồi!”

Trong một chuyến xe từ Los Angeles về vùng Vịnh San Francisco, hai cậu cháu tranh luận sôi nổi về đất nước và con người ngót 3 tiếng đồng hồ. Đề tài chính xoay quanh chuyện người ta sẽ làm gì được cho quê hương, sự lợi hại của việc dấn thân và vai trò của người Việt nước ngoài khi họ có thể tạm bỏ, hoặc giả gác qua một bên chuyện bất cập của chính trị. Chúng tôi đồng ý trên những ý tưởng chính, nhưng có những quan điểm bất đồng so với vai trò của mỗi người.

“Cậu nên về VN sống và dạy học giúp cho học sinh, sinh viên Việt Nam. Như vậy cuộc sống cậu sẽ thú vị, nhiều ý nghĩa hơn.” Thú thật có một năm sabbatical (dạy học lâu năm ở Mỹ, giáo viên được hưởng một năm bồi dưỡng và họ có thể sống ở nước ngoài làm một việc gì ưa thích). Tôi cũng hăm hở làm chuyện này trong nhiều tháng nhưng bị một cú lừa không được thù lao, dù đã cống hiến giáo trình, dịch thuật sách vở Anh văn nhưng rồi chỉ mang lại lợi ích cho những kẻ đầu sỏ nhiều hơn là sinh viên học sinh phải trả học phí cao.

Một chuyện không chối cãi được đối với nhiều người Việt – nhất là những người đã ra đi – họ đều mong muốn cho Việt Nam được phát triển, tiến bộ, và thật sự độc lập (thoát Trung) khi mọi người đều được tôn trọng, bình đẳng trên pháp luật cũng như trên thực tế. Ai cũng muốn đóng góp cho đất nước nhưng nhà nước có nghe họ, có thật sự cho họ có tiếng nói không?

Bề mặt, Đức đã về Hà Nội sống và cho Hà Nội là nhà, nhưng tôi không rõ Đức trải nghiệm thế nào về câu hỏi trên, vì trước khi ra đi về miền miên viễn, 3 tháng trước khi lâm bệnh và qua đời tuy có về vùng Vịnh San Francisco ở vài tuần,  Đức không có thì giờ nói chuyện xa vời hơn với cậu của mình vì đi chung với bạn gái.

Cuối cùng, tất cả những trái tim mà Đức đã chinh phục được, kể cả quả tim tôi, chúng có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng trái tim vô bờ bến của anh đã chết vì quá yêu Hà Nội, yêu Việt Nam không? “Đức, es tu entrain de mourir d’aimer?/ Đức, có phải Đức chết vì yêu không?” Chẳng thơm cũng thể hoa nhàiDẫu không thanh lịch cũng người Tràng An

Vì chúng ta – cả người Mỹ lẫn người Việt – yêu anh quá đỗi cũng như bằng tất cả khối óc hay con tim, Nguyễn Quí Đức đã yêu Hà Nội, yêu quê hương nhưng rốt cuộc quả tim anh – như nhiều quả tim khác – xưa cũng như nay – cũng không đủ lớn để lấp đi những hố sâu thẳm – to hơn những hố bom chiến tranh – trên quê hương?

N.K.T.A.

Tháng Giêng 2024

(*) Tác giả từng cho biết câu thơ của Quang Dũng: Đêm mơ Hà Nội giáng kiều thơm thì “giáng kiều” nói đây chính là tên riêng chỉ thân mẫu của ông, một hoa khôi lừng lẫy của Hà thành thuở trước 1945. Bà Giáng Kiều mất ở Mỹ trong năm đại dịch Covid-19 đang hoành hành dữ dội nhất mà người chú thích câu này được tin rất buồn vì vào năm 2012 đã có may mắn được chiêm ngưỡng chân dung và hầu chuyện qua điện thoại, những tưởng sẽ còn có dịp hạnh ngộ (Chú thích của NHC).

Related posts