Nguồn: Michael Beckley và Hal Brands, “How Primed for War Is China?,” Foreign Policy, 04/02/2024
Biên dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng
Rủi ro xung đột đang ở mức báo động đỏ.
Khả năng Trung Quốc phát động chiến tranh là bao nhiêu? Đây có thể là câu hỏi quan trọng nhất trong các vấn đề quốc tế ngày nay. Nếu Trung Quốc sử dụng lực lượng quân sự chống lại Đài Loan hoặc một mục tiêu khác ở Tây Thái Bình Dương, kết quả có thể là chiến tranh với Mỹ – một cuộc chiến giữa hai gã khổng lồ sở hữu vũ khí hạt nhân đang tranh giành quyền bá chủ khu vực, và rộng hơn là bá quyền thế giới. Nếu Trung Quốc tấn công trong bối cảnh chiến tranh đang nổ ra ở Ukraine và Trung Đông, thế giới sẽ bị huỷ diệt bởi các cuộc xung đột đan xen trên khắp các khu vực trọng điểm của lục địa Á-Âu, một cuộc xung đột toàn cầu chưa từng có kể từ Thế chiến II.
Chúng ta nên lo lắng đến mức nào?
Gần đây đã xuất hiện những động thái ngoại giao cấp cao giữa Washington và Bắc Kinh, nhưng các dấu hiệu cảnh báo chắc chắn vẫn còn đó. Dưới thời Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình, Bắc Kinh đang tích lũy các tàu, máy bay và tên lửa như một phần trong kế hoạch xây dựng quân sự lớn nhất của bất kỳ quốc gia nào trong hàng chục năm qua. Bất chấp một số nỗ lực nhằm thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài eo hẹp, Trung Quốc vẫn đang dự trữ nhiên liệu, thực phẩm, và cố gắng giảm thiểu khả năng nền kinh tế của mình bị tổn thương trước các biện pháp trừng phạt – những bước đi có thể được thực hiện nếu xung đột đến gần. Tập nói rằng Trung Quốc phải chuẩn bị cho “các tình huống xấu nhất và cực đoan nhất” và sẵn sàng chống chọi với “gió lớn, biển động, và thậm chí cả bão tố hiểm nguy.” Nguyên nhân đến từ việc Bắc Kinh ngày càng trở nên cưỡng ép (và đôi khi bạo lực) trong cách đối xử với các nước láng giềng, gồm Philippines, Nhật Bản và Ấn Độ – đồng thời thường xuyên tìm cách phô trương khả năng tấn công, phong tỏa, và xâm lược Đài Loan.
Nhiều quan chức Mỹ tin rằng nguy cơ chiến tranh đang gia tăng. Giám đốc CIA William Burns nhận định Tập đang tìm kiếm khả năng xâm lược Đài Loan vào năm 2027. Và trong lúc nền kinh tế Trung Quốc chật vật, một số nhà quan sát – kể cả nhiều nhà phân tích tình báo Mỹ – đang tìm kiếm những dấu hiệu cho thấy một Trung Quốc đang đạt đỉnh có thể trở nên hung hăng, nhằm đánh lạc hướng sự chú ý khỏi các vấn đề nội bộ hoặc củng cố thành quả trước khi quá muộn.
Các nhà phân tích khác lại cho rằng nguy cơ Trung Quốc gây hấn đã bị thổi phồng quá mức. Một số học giả tin rằng mối nguy có thể được kiểm soát với điều kiện Washington không khiêu khích Bắc Kinh – đây là sự lặp lại của một lập luận lâu đời hơn, rằng Trung Quốc sẽ không thay đổi hiện trạng vốn đã có lợi cho họ. Những người khác chỉ ra rằng Trung Quốc đã không phát động chiến tranh kể từ khi xâm lược Việt Nam vào năm 1979. Và cũng có những người gạt bỏ triển vọng rằng Trung Quốc có thể gây chiến để ứng phó với nền kinh tế đang chậm lại và các vấn đề trong nước khác, tuyên bố rằng nước này không có lịch sử chiến tranh đánh lạc hướng. Điều liên kết những lập luận này với nhau là niềm tin vào tính liên tục trong cách ứng xử của Trung Quốc: ý tưởng rằng một quốc gia chưa phát động một cuộc chiến thảm khốc nào trong hơn bốn thập niên qua sẽ khó có thể làm vậy trong thời hiện đại.
Chúng tôi tin rằng niềm tin này đã bị đặt sai chỗ một cách nguy hiểm. Hành vi của một quốc gia được định hình sâu sắc bởi hoàn cảnh của quốc gia đó, không kém gì truyền thống chiến lược của nước đó, và hoàn cảnh của Trung Quốc đang thay đổi một cách đáng kể. Các nhà khoa học chính trị và các sử gia đã xác định một loạt yếu tố khiến các cường quốc ít nhiều có xu hướng gây chiến. Khi xem xét bốn yếu tố này, có thể thấy rõ rằng những thứ từng tạo điều kiện cho sự trỗi dậy hòa bình giờ đây có thể khuyến khích sự suy tàn một cách bạo lực.
Thứ nhất, các tranh chấp lãnh thổ và tranh chấp khác của Trung Quốc đang trở nên ít có khả năng thỏa hiệp hoặc giải quyết hòa bình hơn trước đây, khiến chính sách đối ngoại trở thành một trò chơi có tổng bằng không. Thứ hai, cán cân quân sự ở châu Á đang thay đổi theo hướng có thể khiến Bắc Kinh lạc quan đến mức nguy hiểm về kết quả của chiến tranh. Thứ ba, dù triển vọng quân sự ngắn hạn của Trung Quốc đã được cải thiện, triển vọng kinh tế và chiến lược dài hạn của nước này lại trở nên u ám hơn – đây chính là kết hợp thường khiến các cường quốc theo chủ nghĩa xét lại trở nên bạo lực hơn trong quá khứ. Thứ tư, Tập đã biến Trung Quốc thành một chế độ độc tài cá nhân, một kiểu chế độ rất dễ vướng vào những tính toán sai lầm tai hại và những cuộc chiến phải trả giá đắt.
Điều này không có nghĩa là Trung Quốc sẽ xâm lược Đài Loan trong một tuần, tháng, hoặc năm cụ thể. Không thể dự đoán chính xác khi nào xung đột có thể xảy ra bởi nguyên nhân thường là một cuộc khủng hoảng không lường trước được. Ngày nay, chúng ta đều biết rằng châu Âu đang trên đà xảy ra chiến tranh vào năm 1914. Tuy nhiên, Thế chiến I có thể đã không xảy ra vào thời điểm đó nếu tài xế chở Đại Công tước Áo Franz Ferdinand không rẽ nhầm đường, dẫn đến một trong những bước ngoặt bi thảm nhất của lịch sử. Chiến tranh giống động đất hơn: Chúng ta không thể biết chính xác khi nào chúng sẽ xảy ra, nhưng chúng ta có thể nhận ra các yếu tố dẫn đến mức độ rủi ro cao hơn hoặc thấp hơn. Và giờ đây, các chỉ số rủi ro của Trung Quốc đang nhấp nháy màu đỏ.
Thoạt nhìn, khả năng xảy ra chiến tranh Mỹ-Trung có vẻ xa vời. Bắc Kinh đã không tham gia một cuộc chiến lớn nào trong 44 năm qua, và quân đội của họ cũng không giết hại một lượng lớn người nước ngoài kể từ năm 1988, khi các tàu khu trục nhỏ của Trung Quốc bắn chết 64 thủy thủ Việt Nam trong một cuộc giao tranh trên quần đảo Trường Sa. Cho đến nay, cái gọi là hòa bình châu Á – việc không có chiến tranh giữa các quốc gia ở Đông Á kể từ năm 1979 – vẫn dựa trên nền hòa bình của Trung Quốc.
Nhưng không có chiến tranh không có nghĩa là không có xâm lược: Bắc Kinh đã sử dụng các khả năng quân sự và bán quân sự để mở rộng quyền kiểm soát của mình ở Biển Đông và Biển Hoa Đông. Trong những năm gần đây, Trung Quốc cũng nhiều lần xung đột đẫm máu với Ấn Độ. Tuy nhiên, thực tế là Bắc Kinh đã tránh tham gia các cuộc chiến lớn – trong khi Mỹ đã tham gia một vài cuộc chiến trong số đó – đã cho phép các quan chức Trung Quốc tuyên bố rằng đất nước của họ đang đi theo một con đường hòa bình độc nhất để trở thành cường quốc toàn cầu. Và tuyên bố đó cũng buộc những người lo ngại về chiến tranh phải giải thích tại sao Trung Quốc, quốc gia đã tăng trưởng kỷ lục nhờ hai thế hệ hòa bình, lại quyết định đột ngột thay đổi hướng đi?
Đây không phải là lần đầu tiên một cường quốc tưởng chừng đang trỗi dậy hòa bình lại bất ngờ thay đổi. Trước năm 1914, Đức không hề tham gia một cuộc chiến lớn nào suốt hơn 40 năm. Vào thập niên 1920, đối với nhiều nhà quan sát nước ngoài, Nhật Bản là một bên liên quan có trách nhiệm, sẵn sàng ký các hiệp ước cam kết hạn chế hải quân, chia sẻ quyền lực ở châu Á và tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của Trung Quốc. Đầu những năm 2000, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã cân nhắc việc gia nhập NATO và đưa Nga đến gần hơn với phương Tây. Việc mỗi nước trong nhóm này bất chấp tất cả để phát động các cuộc chiến tranh chinh phục man rợ đã nhấn mạnh một sự thật cơ bản: Mọi thứ đều thay đổi. Cùng một nước vẫn có thể hành xử khác nhau, thậm chí khác xa, tùy thuộc vào hoàn cảnh.
Một tình huống như vậy thường xảy ra do tranh chấp lãnh thổ. Phần lớn các cuộc chiến đều xoay quanh việc ai sở hữu dải đất nào trên Trái Đất; khoảng 85% các cuộc xung đột quốc tế diễn ra kể từ năm 1945 đều xoay quanh các yêu sách lãnh thổ. Lãnh thổ rất khó phân chia vì chúng thường có ý nghĩa mang tính biểu tượng hoặc chiến lược. Ngay cả khi các quốc gia đồng ý cùng phân chia một khu vực nào đó, thì cuối cùng họ vẫn sẽ đối đầu để giành lấy những phần có giá trị nhất, chẳng hạn như thành phố, mỏ dầu, thánh địa, hải cảng, hoặc điểm cao chiến lược. Ngoài ra, việc bảo vệ lãnh thổ đòi hỏi sự hiện diện vật lý dưới hình thức hàng rào, binh lính, hoặc dân định cư. Vì vậy, khi các quốc gia tuyên bố chủ quyền trên cùng một lãnh thổ, họ chắc chắn tiếp xúc thường xuyên và theo cách không thân thiện. Tranh chấp lãnh thổ đặc biệt có khả năng leo thang nếu một bên lo ngại yêu sách của mình đang biến mất nhanh chóng. Nỗi sợ rằng lãnh thổ lịch sử đang bị tước đoạt hoặc đất nước bị kẻ thù chia cắt có thể kích động hành vi xâm lược, điều mà một quốc gia có biên giới an toàn sẽ không lựa chọn.
Nguyên nhân thứ hai dẫn đến chiến tranh là sự thay đổi cán cân quân sự. Các cuộc chiến diễn ra vì nhiều vấn đề khác nhau nhưng tất cả đều có chung một nguyên nhân cơ bản: sự lạc quan sai lầm. Chúng xảy ra khi cả hai bên tin rằng họ có thể sử dụng vũ lực để đạt được mục tiêu – nói cách khác, khi cả hai bên tin rằng mình có thể giành chiến thắng. Chiến tranh rất hiếm khi có kẻ toàn thắng – nghĩa là ít nhất một bên – và thường là cả hai – đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi đánh giá thấp sức mạnh của đối thủ. Nói tóm lại, một cán cân quân sự mang tính cạnh tranh hoặc mơ hồ sẽ dẫn đến chiến tranh; do đó, bất cứ điều gì khiến cho cán cân đó trở nên cạnh tranh hơn hoặc mơ hồ hơn, chẳng hạn như việc áp dụng công nghệ mới hoặc sự tăng cường quân sự quy mô lớn của bên yếu hơn, đều làm tăng nguy cơ chiến tranh.
Thứ ba, các cường quốc trở nên hiếu chiến khi họ lo sợ sự suy tàn trong tương lai. Cạnh tranh địa chính trị rất khốc liệt và không khoan nhượng, vì vậy các quốc gia sẽ cố gắng bảo vệ sự giàu có và quyền lực tương đối của mình. Ngay cả những quốc gia hùng mạnh nhất cũng có thể rơi vào vòng xoáy bất ổn bạo lực khi phải đối mặt với trì trệ kinh tế, bao vây chiến lược, hoặc các xu hướng kéo dài khác vốn đe dọa vị thế quốc tế của họ và khiến họ dễ bị kẻ thù tấn công. Được vũ trang mạnh mẽ nhưng ngày càng trở nên lo lắng, một cường quốc đang trên bờ vực suy tàn sẽ vội vã, thậm chí tuyệt vọng, tìm cách chống lại các xu hướng bất lợi bằng mọi giá. Đối với đế quốc Đức, đế quốc Nhật, và nước Nga của Putin, điều đó có nghĩa là chiến tranh.
Cuối cùng, cách hành xử của một quốc gia được định hình bởi chế độ của quốc gia đó. Các chế độ độc tài cá nhân có nguy cơ phát động chiến tranh cao gấp đôi so với các chế độ dân chủ hoặc chế độ chuyên chế trong đó quyền lực được nắm giữ trong tay nhiều người. Các nhà độc tài khởi xướng nhiều cuộc chiến hơn vì họ ít phải gánh chịu cái giá phải trả của xung đột: Trong 100 năm qua, chỉ có 30% nhà độc tài thua trận bị hạ bệ khỏi quyền lực, trong khi gần 100% các nhà lãnh đạo dưới các chế độ khác khi thua trận đều bị bỏ phiếu truất quyền hoặc bị lật đổ. Các nhà độc tài lựa chọn con đường cực đoan vì xung quanh họ là những kẻ nịnh bợ, những kẻ sẽ dốc hết sức để đáp ứng yêu cầu của “lãnh đạo kính yêu.” Các nhà độc tài cũng nuôi dưỡng những đối thủ nước ngoài, cả có thật lẫn tưởng tượng, bởi chủ nghĩa dân tộc dựa trên huyết thống và lãnh thổ (blood-and-soil nationalism) giúp họ biện minh cho sự cai trị hà khắc trong nước. Vì vậy, trong khi các nhà lãnh đạo của các chính phủ bị kiểm soát (một cách dân chủ) thường cai trị một cách khiêm tốn và chìm vào quên lãng, thì các nhà độc tài – bao gồm Adolf Hitler của Đức, Benito Mussolini của Ý, Joseph Stalin của Liên Xô, Mao Trạch Đông của Trung Quốc, Saddam Hussein của Iraq, Vladimir Putin của Nga – lại thường xuyên đi vào các sách lịch sử.
Bốn yếu tố này – biên giới bất ổn, cán cân quân sự mang tính cạnh tranh, những kỳ vọng tiêu cực, và chế độ độc tài cá nhân – giúp giải thích việc sử dụng vũ lực của Trung Quốc trong lịch sử, và chúng cũng có những ảnh hưởng đáng lo ngại ngày nay.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời trong chiến tranh. Sau một thế kỷ chịu đựng ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc nước ngoài, Trung Quốc trở thành chiến trường chính của Thế chiến II ở châu Á sau khi Nhật Bản xâm lược vào năm 1937. Ít nhất 14 triệu người Trung Quốc đã thiệt mạng. Sau đó, từ năm 1945 đến năm 1949, Nội chiến Trung Quốc lên đến đỉnh điểm đẫm máu, khiến thêm ít nhất 2 triệu người thiệt mạng khi phe Cộng sản lên nắm quyền.
Được rèn giũa giữa những xung đột này, Trung Quốc nổi lên như một quốc gia siêu hiếu chiến. Trong nhiều thập niên, họ là một trong những quốc gia có nhiều xung đột nhất thế giới, trải qua 5 cuộc chiến và trở thành kẻ thù chính của cả hai siêu cường Chiến tranh Lạnh. Kỷ lục bạo lực này không có gì đáng ngạc nhiên bởi Trung Quốc đã bộc lộ cả bốn yếu tố có nguy cơ dẫn đến chiến tranh.
Đầu tiên, Trung Quốc được lãnh đạo bởi Mao Trạch Đông, biểu tượng đỉnh cao của chế độ độc nhân trị. Ông thường xuyên thanh trừng các đồng nghiệp của mình và đơn phương ra quyết định giữa đêm, khi vẫn còn nửa tỉnh nửa mơ, dựa trên những lý do khó hiểu và hay thay đổi. Ông cũng có thái độ coi thường mạng sống con người thật đáng kinh ngạc. Khoảng 45 triệu người đã bị bỏ đói, đánh đập, hoặc bị bắn chết trong Đại Nhảy vọt, kế hoạch đầy thiếu sót của Mao nhằm biến Trung Quốc thành siêu cường ngay khi ông còn tại vị. Phần nào để tập hợp cả nước ủng hộ kế hoạch tai hại này, Mao đã gây ra một cuộc khủng hoảng quốc tế vào năm 1958 bằng cách pháo kích vào các hòn đảo do chính phủ Quốc Dân Đảng nắm giữ ở Đài Loan.
Mao là một bạo chúa, nhưng ngay cả một nhà lãnh đạo ít tàn nhẫn hơn cũng sẽ chật vật tìm cách gìn giữ hòa bình cho một quốc gia đã tan vỡ đến vậy. Sau khi giành chiến thắng trong cuộc nội chiến, chính quyền Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã phải tái lập sử kiểm soát của chính quyền trung ương ở từng làng và nỗ lực tiêu diệt sự phản kháng của các dân tộc thiểu số, lãnh chúa, và những người có cảm tình với Quốc Dân Đảng. Tệ hơn nữa, sự sụp đổ của các đế chế Nhật Bản và châu Âu khiến Trung Quốc bị bao vây một phần bởi các quốc gia mới có thái độ thù địch, bất ổn, hoặc cả hai. Phần lớn biên giới Trung Quốc đều vướng vào tranh chấp ở một mức độ nào đó. Tính đến những năm 1960, biên giới Xô-Trung chính là nơi được quân sự hóa nhiều nhất trên thế giới. Còn Đài Loan trở thành căn cứ của chính phủ Trung Hoa Dân Quốc đối địch, được Mỹ hậu thuẫn, với các kế hoạch công khai nhằm tái chiếm đại lục. Về phần mình, Ấn Độ đã tiếp đón chính phủ Tây Tạng lưu vong và tuyên bố chủ quyền với nhiều vùng lãnh thổ của Trung Quốc. Trong khi đó, khu trung tâm của Trung Quốc bị chèn ép giữa hai điểm nóng Chiến tranh Lạnh là Đông Dương và Bán đảo Triều Tiên.
Trung Quốc thường xuyên cho rằng họ có nguy cơ bị chia cắt, một tổn thương lịch sử vốn đã trở nên trầm trọng hơn do những thảm họa kinh tế và biến động chính trị mà Mao gây ra. Tuy nhiên, Bắc Kinh luôn có một chiến lược khả thi để chống lại từng nước láng giềng trên đất liền, vì dân số khổng lồ của Trung Quốc cho phép nước này nuốt chửng đối thủ thông qua cái mà Bắc Kinh gọi là “chiến tranh nhân dân,” một sự kết hợp giữa các cuộc tấn công bằng biển người và các cuộc tấn công du kích. Tóm lại, đây là một sự kết hợp dễ phát nổ: một chế độ độc tài tàn bạo có nhiều tranh chấp lãnh thổ và được trang bị nguồn nhân lực dường như vô tận.
Do đó, Trung Quốc đi từ xung đột này sang xung đột khác, trở nên bạo lực khi nước này cảm thấy đặc biệt dễ bị tổn thương hoặc lo sợ vị thế của mình sắp bị suy giảm. Năm 1950, Trung Quốc tấn công lực lượng Mỹ trên đường tiến sâu vào lãnh thổ Triều Tiên, chấp nhận nguy cơ bị trả đũa hạt nhân. Cuối thập niên đó, Trung Quốc gần như đã phát động thêm hai cuộc chiến bổ sung bằng cách pháo kích các đơn vị đồn trú của Quốc Dân Đảng trên các đảo ngoài khơi ở Eo biển Đài Loan. Năm 1962, Bắc Kinh tấn công lực lượng Ấn Độ sau khi người Ấn xây dựng các tiền đồn trên lãnh thổ mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở dãy Himalaya. Trong Chiến tranh Việt Nam, Trung Quốc đã gửi hàng nghìn quân sang để chống Mỹ. Năm 1969, Bắc Kinh một lần nữa mạo hiểm với chiến tranh hạt nhân khi phục kích lực lượng Moscow dọc theo Sông Ussuri, sau khi Liên Xô tăng cường quân sự đáng kể ở đó. Mười năm sau, Trung Quốc tấn công Việt Nam sau khi Việt Nam tiếp đón lực lượng Liên Xô và đưa quân vào Campuchia, một trong những đối tác thân thiết duy nhất của Bắc Kinh.
Sau đó, tiếng súng của Trung Quốc đã gần như im bặt. Đúng là có những trường hợp ngoại lệ, đáng chú ý nhất là vào năm 1995 và 1996, khi Trung Quốc phóng tên lửa gần Đài Loan. Nhưng nhìn chung, Bắc Kinh đã bớt gai góc và hung hăng hơn trong giai đoạn 1980 đến giữa những năm 2000, khi hoàn cảnh của nước này thay đổi đáng kể.
Đầu tiên, chế độ đã ôn hoà hơn. Năm 1976, Mao qua đời và được thay thế bởi Đặng Tiểu Bình, người từng bị Mao thanh trừng và hiểu rõ sự nguy hiểm của chế độ độc nhân trị. Dưới sự chỉ đạo của Đặng, giới hạn nhiệm kỳ cho các lãnh đạo cấp cao đã được thiết lập. Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc và Ban chấp hành Trung ương ĐCSTQ bắt đầu nhóm họp thường xuyên. Một bộ máy hành chính chuyên nghiệp bắt đầu thành hình. Những thể chế này còn lâu mới hoàn hảo, nhưng chúng đã tạo ra những biện pháp kiểm soát quyền lực mà dưới thời Mao hoàn toàn không có.
Thứ hai, vị thế địa chính trị của Trung Quốc được cải thiện và các mối đe dọa đối với sự toàn vẹn lãnh thổ của nước này cũng giảm bớt. Sau khi Mỹ mở cửa với Trung Quốc vào những năm 1970, chính phủ đối địch ở Đài Loan đã mất phần lớn sự công nhận về mặt ngoại giao và liên minh quân sự với Mỹ. Để dồn ép Liên Xô, Mỹ đã thành lập một “bán liên minh” với Trung Quốc và chuyển giao công nghệ tiên tiến cho các công ty của nước này. Đài Loan, Liên Xô, Ấn Độ, và Việt Nam không còn có thể xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc mà không kích động phản ứng từ Mỹ. Và khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, các mối đe dọa lớn đối với biên giới đất liền của Trung Quốc gần như biến mất hoàn toàn. Nếu không có sự hỗ trợ của Nga, Ấn Độ, Việt Nam, và các quốc gia mới thành lập ở Trung Á sẽ không thể tranh giành biên giới với Trung Quốc. Thay vào đó, họ chuyển sang bình thường hóa quan hệ với Bắc Kinh.
Thứ ba, quan điểm của Trung Quốc về tương lai dần trở nên tươi sáng hơn. Sau khi xích lại gần Mỹ và các nền dân chủ khác, Trung Quốc đã dễ dàng tiếp cận nền kinh tế toàn cầu và có được một ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Từ cuối những năm 1970 đến đầu những năm 2000, nền kinh tế nước này tăng trưởng với tốc độ chóng mặt. Hết nước này đến nước khác đều hết lòng ủng hộ Bắc Kinh để tiếp cận thị trường đang bùng nổ của họ. Anh trao trả Hong Kong, còn Bồ Đào Nha từ bỏ Ma Cao. Mỹ nhanh chóng đưa Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Khi nền kinh tế Trung Quốc phát triển bùng nổ và các quốc gia hùng mạnh nhất thế giới đều chào đón sự trỗi dậy của nước này, Bắc Kinh chẳng có lý do gì để đảo lộn hiện trạng dường như đang trở nên tốt đẹp hơn từng ngày.
Cuối cùng, Trung Quốc ít có cơ hội chinh phạt. Dù ảnh hưởng kinh tế và ngoại giao của họ đã tăng vọt, Trung Quốc rõ ràng vẫn không đủ khả năng quân sự để chiếm giữ các lãnh thổ vẫn đang tranh chấp, phần lớn trong số đó nằm trên biển. Trước những năm 2000, với lực lượng không quân và hải quân yếu, một cuộc xâm lược của Trung Quốc nhắm vào Đài Loan sẽ giống như việc “hàng triệu người cùng nhảy xuống nước,” trong khi một cuộc đụng độ hải quân với các lực lượng tiên tiến của Nhật Bản sẽ kết thúc chỉ sau vài giờ. Quan trọng nhất, Mỹ có thể sẽ đè bẹp sự hung hăng của Trung Quốc ở vùng biển châu Á. Sau khi chứng kiến lực lượng Mỹ tiêu diệt quân đội Iraq trong Chiến tranh vùng Vịnh, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã quyết định đi theo châm ngôn nổi tiếng của Đặng – “ẩn mình chờ thời.”
***
Trung Quốc ngày nay đã không còn ẩn mình chờ thời. Thay vào đó, nước này đang sản xuất tàu chiến và tên lửa nhanh hơn bất kỳ quốc gia nào khác kể từ Thế chiến II. Máy bay và tàu chiến Trung Quốc liên tục mô phỏng các cuộc tấn công vào mục tiêu ở Đài Loan và Mỹ. Các tuyến đường biển châu Á có chi chít các tiền đồn quân sự của Trung Quốc và đầy ắp các tàu hải cảnh và tàu đánh cá Trung Quốc, ngang nhiên xua đuổi tàu của các nước láng giềng ra khỏi khu vực mà Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền. Trong khi đó, Trung Quốc đang tiếp tay cho hành động tàn bạo của Nga đối với Ukraine và tập trung lực lượng ở biên giới Trung-Ấn.
Một lý do khiến Trung Quốc trở nên hiếu chiến hơn đơn giản là vì nước này có thể. Ngân sách quân sự được điều chỉnh theo lạm phát của Trung Quốc đã tăng gấp 10 lần từ năm 1990 đến năm 2020. Bắc Kinh hiện chi tiêu cho quốc phòng nhiều hơn mọi quốc gia khác ở châu Á cộng lại. Họ sở hữu lực lượng tên lửa đạn đạo và hải quân lớn nhất thế giới. Đến cuối thập niên này, kho vũ khí hạt nhân của họ nhiều khả năng sẽ sánh ngang với kho vũ khí hạt nhân của Washington. Với các tên lửa thông thường có khả năng huỷ diệt các căn cứ của Mỹ ở Okinawa – những căn cứ duy nhất cách Đài Loan trong phạm vi hơn 800 km – không thể biết được liệu Lầu Năm Góc có thể phản ứng ngay lập tức, chứ chưa nói đến việc đánh bại, một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Đài Loan hay không. Trong lịch sử, Mỹ đã dựa vào năng lực sản xuất của mình để sản xuất nhiều vũ khí hơn đối thủ trong các cuộc chiến kéo dài. Nhưng giờ đây, Trung Quốc là công xưởng của thế giới, Bắc Kinh có thể tin tưởng – dù đúng hay sai – rằng cán cân quân sự sẽ dịch chuyển theo hướng có lợi cho họ nếu chiến tranh tiếp tục kéo dài.
Trung Quốc cũng có động cơ gây chiến lớn hơn khi tranh chấp lãnh thổ ngày càng gia tăng. Đầu tiên, các biện pháp để thống nhất với Đài Loan trong hoà bình đang biến mất nhanh chóng. Năm 1995, đa số người dân Đài Loan vẫn xem mình là người Trung Quốc, và số lượng người ủng hộ thống nhất với Trung Quốc nhiều hơn hẳn so với nhóm ủng hộ độc lập. Ngày nay, gần hai phần ba dân số tự nhận mình là người Đài Loan, trong khi chỉ có 4% tự nhận là người Trung Quốc. Thêm nữa, dù hầu hết người Đài Loan ủng hộ việc duy trì hiện trạng, 49% dân số muốn tuyên bố độc lập hơn là hiện trạng vô thời hạn (27%) hoặc thống nhất với đại lục (12%). Trong khi đó, Mỹ đã dần thắt chặt quan hệ với Đài Loan, với việc Tổng thống Mỹ Joe Biden tuyên bố ít nhất bốn lần rằng Mỹ sẽ bảo vệ hòn đảo này khỏi một cuộc tấn công của Trung Quốc. Trong lúc Washington và Đài Bắc cải tổ quân đội của họ để chuẩn bị cho một cuộc xung đột tiềm tàng với Trung Quốc, Bắc Kinh ngày càng trở nên cảnh giác hơn về số phận của vùng lãnh thổ mà họ thèm muốn nhất.
Ở Biển Đông, sự hiện diện quân sự của Trung Quốc đã mở rộng đáng kể, nhưng vị thế ngoại giao của nước này lại đang bị xói mòn. Năm 2016, Tòa Trọng tài Thường trực ở La Haye đã ra phán quyết rằng các yêu sách mở rộng của Trung Quốc đối với Biển Đông là vô hiệu. Kể từ năm 2022, Philippines – quốc gia khởi kiện – đã tái khẳng định các quyền hàng hải của mình, đồng thời cho phép Mỹ tiếp cận các căn cứ quân sự bổ sung trên lãnh thổ của Philippines để hỗ trợ phòng vệ. Về phần mình, Nhật Bản đang hình thành một bán liên minh với Manila, và ngày càng có nhiều quốc gia, trong đó có Anh, Pháp, và Đức, đang gửi tàu chiến đi qua Biển Đông bất chấp các yêu sách của Bắc Kinh. Đáp trả, Trung Quốc đã trở nên hung hăng hơn nhiều. Ví dụ, hồi năm ngoái, các tàu hải cảnh Trung Quốc đã dùng vòi rồng bắn vào các tàu tiếp tế của Philippines, ngăn cản các tàu này giao thực phẩm cho quân nhân đồn trú trên Bãi Cỏ Mây.
Dù sức mạnh quân sự của Trung Quốc đang trên đà gia tăng, triển vọng địa chính trị của nước này lại dần trở nên u ám. Nền kinh tế Trung Quốc gần đây đã trì trệ và suy giảm so với Mỹ. Năng suất giảm nhưng nợ lại cao ngất ngưởng. Hơn 20% thanh niên thất nghiệp tính đến giữa năm 2023 – khi Bắc Kinh tạm thời ngừng công bố số liệu thống kê về vấn đề này – và con số đó gần như chắc chắn đã hạ thấp mức độ nghiêm trọng của vấn đề. Hàng loạt người Trung Quốc giàu có và có học vấn cao đang cố gắng mang của cải và con cái họ ra nước ngoài. Và vấn đề sẽ còn tồi tệ hơn khi Trung Quốc phải đối mặt với cuộc khủng hoảng già hóa dân số tồi tệ nhất trong lịch sử thế giới: Trong 10 năm tới, Trung Quốc sẽ mất đi 70 triệu người trong độ tuổi lao động và có thêm 130 triệu người cao tuổi.
Cuối cùng, Trung Quốc còn phải đối mặt với một môi trường chiến lược ngày càng thù địch. Các quốc gia giàu có nhất thế giới đang hạn chế khả năng tiếp cận các chất bán dẫn cao cấp – huyết mạch của đổi mới kinh tế và quân sự – đồng thời áp đặt các hạn chế thương mại và đầu tư mới đối với Bắc Kinh. Các hiệp định chống Trung Quốc, như AUKUS, Đối thoại An ninh Bốn bên Quad, và hiệp định ba bên Mỹ-Nhật-Hàn, xuất hiện ngày một nhiều. Cường quốc đồng minh duy nhất của Trung Quốc, Nga, đã đưa quân đội vào một cuộc xung đột khốc liệt tại Ukraine, khiến dư luận ở nhiều nước châu Âu không còn thiện cảm với Bắc Kinh.
Nếu Trung Quốc được cai trị bởi một ủy ban gồm các nhà kỹ trị, thì có lẽ nước này có thể đối phó với áp lực bằng thỏa hiệp ngoại giao và cải cách kinh tế. Nhưng trên thực tế, Trung Quốc do một nhà độc tài lãnh đạo, người đã thể hiện sự sẵn sàng hy sinh lợi ích của người dân để đạt được những mục tiêu vĩ mô của mình.
Kể từ khi lên nắm quyền vào năm 2012, Tập đã tìm cách để trở thành lãnh đạo trọn đời, đưa triết lý cai trị của mình vào hiến pháp, và thanh trừng hàng nghìn đối thủ tiềm năng. Ông nhất quyết không khoan nhượng đối với các yêu sách lãnh thổ rộng lớn của Trung Quốc. “Chúng tôi không thể để mất dù chỉ một tấc lãnh thổ mà tổ tiên mình để lại,” ông cảnh báo Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis vào năm 2018. Tập đã gắn tính chính danh của mình với việc biến Trung Quốc thành một siêu cường. Ngày nay, truyền thông nhà nước tuyên bố rằng: dưới thời Mao, Trung Quốc đã đứng lên; dưới thời Đặng, Trung Quốc đã tích luỹ của cải; và dưới thời Tập, Trung Quốc sẽ trở nên hùng mạnh. Trong những năm gần đây, Tập đã có những bài phát biểu nội bộ yêu cầu quân đội Trung Quốc sẵn sàng cho chiến tranh và yêu cầu người dân chuẩn bị cho “các tình huống cực đoan nhất.”
Có thể những tuyên bố mạnh mẽ này chỉ là hù dọa. Nhưng nhiều hành động của Tập – các lệnh phong tỏa zero COVID hà khắc, các trại tập trung ở Tân Cương, việc đàn áp các quyền tự do của Hong Kong – đã bộc lộ sự tàn nhẫn. Kết hợp với những thay đổi khác mà Trung Quốc đang trải qua, những hình thức đàn áp nội bộ này đang khiến chúng ta lo ngại về nguy cơ xâm lược nước ngoài trong tương lai.
Tất nhiên, các quốc gia không đưa ra lựa chọn chiến tranh hay hòa bình một cách đơn độc; họ cũng bị ảnh hưởng bởi tình hình chung của thế giới. Vào thập niên 1930, tình trạng hỗn loạn quốc tế lan rộng đã làm suy giảm tinh thần của những người bảo vệ trật tự hiện tại và khuyến khích những kẻ có ý định tấn công nó. Vậy tình trạng rối loạn hiện nay – được đánh dấu bởi cuộc chiến lớn nhất của châu Âu kể từ Thế chiến II và cuộc xung đột lan rộng ở Trung Đông – sẽ định hình những lựa chọn của Trung Quốc như thế nào?
Một quan điểm cho rằng cuộc chiến của Nga ở Ukraine khiến cho chiến tranh xâm lược ít có khả năng xảy ra hơn, bằng cách cho thấy chúng có thể phản tác dụng kinh khủng đến mức nào. Theo quan điểm này – vốn được các quan chức chính quyền Biden và một số chuyên gia học thuật ưa chuộng – Trung Quốc đang học được những bài học nghiêm túc từ việc thâu tóm lãnh thổ bất hợp pháp của Putin. Bắc Kinh đang học được rằng cuộc chinh phạt sẽ khó đến mức nào khi gặp phải một hàng phòng vệ kiên định, quân đội chuyên chế có thể hoạt động kém hiệu quả ra sao trên chiến trường, tình báo Mỹ lão luyện đến đâu trong việc phát hiện các kế hoạch săn mồi, và thế giới dân chủ có thể trừng phạt những quốc gia thách thức các quy tắc của trật tự tự do khắc nghiệt đến mức nào. Các quan chức Mỹ đã theo dõi sát sao quân đội Trung Quốc để tìm kiếm dạng tham nhũng tương tự như đã làm suy yếu quân đội Nga, và nhờ đó phát hiện mức độ tham nhũng còn sâu rộng hơn nhiều so với tưởng tượng. Chắc chắn, họ hy vọng Trung Quốc sẽ diễn giải các sự kiện gần đây theo cách tương tự.
Nhưng chúng ta phải cẩn trọng xem xét cách giải thích này. Cần nhớ một điều, rất khó để xác định quan điểm thực sự của Trung Quốc về cuộc chiến Ukraine. Suy cho cùng, những bài học quan trọng không phải là những bài học do các đại tá cấp cao trong Quân đội Giải phóng Nhân dân hay các chuyên gia tư vấn ở Bắc Kinh công bố. Những bài học quan trọng là những bài học được rút ra bởi một nhà độc tài được bao quanh bởi những kẻ nịnh hót, khiến nhận thức của ông về thế giới có thể bị ảnh hưởng bởi tất cả những bệnh lý thông thường của các chế độ độc tài cá nhân. Từ những phát biểu công khai của Tập, có rất ít bằng chứng cho thấy cuộc xung đột đã làm giảm tham vọng của ông hoặc khiến chiến lược của Trung Quốc thay đổi đáng kể. Khi Tập đến thăm Moscow vào tháng 3/2023, ông nói với Putin: “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Hơn nữa, Tập Cận Bình có thể không coi Ukraine và Đài Loan là hai thứ có thể so sánh với nhau. Lực lượng của Putin đã phải chật vật ở Ukraine một phần vì đây không phải là cuộc chiến mà họ đã được chuẩn bị về thể chất lẫn tinh thần. Đó sẽ không phải là vấn đề đối với Trung Quốc, vì nước này đã chuẩn bị cho cuộc chiến với Đài Loan suốt hàng chục năm– và không ngừng ra chỉ thị cho binh lính của mình rằng thống nhất là trọng tâm trong “sự phục hưng vĩ đại của dân tộc Trung Hoa.” Hơn nữa, nếu Tập cho rằng khả năng kêu gọi phản kháng toàn xã hội của Đài Loan là kém hơn Ukraine, thì ông cũng không đơn độc. Nhiều quan chức Mỹ và các nhà phân tích độc lập cũng bày tỏ quan ngại tương tự.
Hoặc có lẽ Tập đã kết luận rằng Mỹ sẽ không tham gia bất kỳ cuộc chiến nào chống lại một cường quốc có vũ khí hạt nhân – bởi Biden đã dùng lý do này khi giải thích tại sao Washington không đối đầu trực tiếp với Moscow. Hoặc có lẽ Tập cho rằng các biện pháp trừng phạt của phương Tây không thực sự mang tính trừng phạt đến vậy: Hai năm sau chiến tranh, Nga vẫn kiểm soát 20% lãnh thổ Ukraine, trong khi dầu mỏ và các mặt hàng xuất khẩu khác của nước này đã tìm được thị trường mới, các nhà máy của nước này tiếp tục sản xuất thêm vũ khí, và nền kinh tế của nước này không đứng trước nguy cơ sụp đổ. Và có lẽ Tập coi quỹ đạo gần đây của cuộc chiến Ukraine – trong đó Nga đã vượt qua các cuộc phản công của Ukraine giữa lúc các chính trị gia Mỹ tranh cãi về việc gửi thêm tiền và vũ khí cho Kyiv – là bằng chứng cho thấy các chế độ chuyên chế có thể huy động được nhiều sức mạnh và sự bền bỉ hơn kẻ thù dân chủ của họ.
Xin nói rõ, chúng ta không biết Tập thực sự nghĩ gì. Nhưng sẽ thật nguy hiểm nếu cho rằng ông đang học chính xác những bài học mà người Mỹ muốn ông học – chứ không phải là một loạt bài học khác, vốn có thể củng cố xu hướng hiếu chiến của Trung Quốc.
Sau cùng, Trung Quốc có thể tấn công Đài Loan – hoặc Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines, hoặc một quốc gia khác – vào năm 2025, 2027, 2029, hoặc không bao giờ. Chúng ta không thể dự đoán chắc chắn khi nào hoặc thậm chí liệu Bắc Kinh có sử dụng vũ lực hay không, vì quyết định đó sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu tố ngẫu nhiên. Nhưng chúng ta vẫn có thể đánh giá liệu một quốc gia có dễ bị tổn thương trước chiến tranh hay không, và liệu các đặc điểm bên trong cũng như điều kiện bên ngoài có làm tăng hay giảm mức độ hiếu chiến của họ. Dựa trên các hiểu biết hiện nay về nguyên nhân gây ra chiến tranh, nhiều dấu hiệu cho thấy Trung Quốc đang ở trong tình trạng dễ xảy ra bạo lực.
Thật không may, Washington không thể tác động đến một vài trong số các yếu tố đẩy Bắc Kinh đi vào con đường nguy hiểm này. Mỹ không thể giải quyết cuộc khủng hoảng nhân khẩu học ở Trung Quốc, giải quyết các vấn đề về cơ cấu kinh tế của nước này hoặc ngăn chặn việc Tập củng cố chế độ độc tài. Nhưng Mỹ có thể thay đổi những kỳ vọng tiêu cực của Trung Quốc về tương lai – chẳng hạn như bằng cách cho phép Bắc Kinh tiếp cận công nghệ cao hoặc từ bỏ nỗ lực xây dựng các liên minh lớn ở Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương, dù rằng làm như vậy có thể làm suy yếu nghiêm trọng vị thế của Washington. Mỹ phải cố gắng giành ưu thế trong cuộc cạnh tranh, và đồng thời tránh một cuộc xung đột khủng khiếp. Trong bối cảnh đó, mục đích của họ nên là giảm bớt sự lạc quan của Trung Quốc về kết cục khả dĩ của một cuộc chiến ở châu Á và ngăn Bắc Kinh đi đến kết luận rằng họ phải chiến đấu để tránh một thất bại nhục nhã.
Các nhiệm vụ để khiến Trung Quốc không lạc quan về kết quả của chiến tranh khá đơn giản – ngay cả khi chúng không dễ thực hiện. Chúng bao gồm một Đài Loan với đầy đủ tên lửa chống hạm, thủy lôi, hệ thống phòng không di động, và các vũ khí rẻ tiền nhưng gây chết người khác; quân đội Mỹ có thể sử dụng máy bay không người lái, tàu ngầm, máy bay tàng hình, và một lượng lớn tên lửa tấn công tầm xa để mang lại hỏa lực mang tính quyết định ở Tây Thái Bình Dương; thỏa thuận với các đồng minh và đối tác cho phép lực lượng Mỹ tiếp cận nhiều căn cứ hơn trong khu vực và đe dọa đưa thêm quốc gia tham chiến chống lại Bắc Kinh; một liên minh toàn cầu gồm các quốc gia có thể đánh bại nền kinh tế Trung Quốc bằng các biện pháp trừng phạt và bóp nghẹt thương mại đường biển của nước này; và một cơ sở công nghiệp được tái thiết để giúp các nước dân chủ tiếp tục chiến đấu cho đến khi ưu thế về kinh tế và tài chính của họ mang đến chiến thắng quyết định cuối cùng. Washington và các đồng minh đã và đang theo đuổi tất cả các sáng kiến này. Nhưng tốc độ, nguồn lực và tính cấp bách vẫn chưa đủ để vượt qua mối đe dọa quân sự đang tăng nhanh từ Trung Quốc.
Nhiệm vụ thứ hai liên quan đến việc kết hợp giữa răn đe với trấn an – để hạn chế mức độ mà việc không hành động, theo quan điểm của Tập, có thể khiến Trung Quốc rơi vào tình trạng bị chia cắt và nhục nhã. Các quan chức Trung Quốc thực sự lo ngại rằng chính sách của Mỹ và nền chính trị Đài Loan đang đưa hòn đảo này vào con đường hướng tới độc lập, hoặc một số hình thức chia cắt vĩnh viễn khác, nhưng lại không nhận ra rằng hành động của chính họ mới là nguyên nhân chính của xu hướng đó. Vì vậy, Mỹ phải hành động thận trọng đối với Đài Loan.
Washington nên tránh những hành động phô trương – chẳng hạn như chuyến thăm Đài Loan vào tháng 8/2022 của Chủ tịch Hạ viện lúc bấy giờ là Nancy Pelosi – vốn không giúp tăng cường khả năng phòng thủ của hòn đảo, mà còn khiến Trung Quốc lo lắng và tức giận. Mỹ cũng nên từ chối ý tưởng bỏ chính sách “Một Trung Quốc” và chính thức công nhận Đài Loan, như một số cựu quan chức, bao gồm cựu Ngoại trưởng Mỹ Mike Pompeo, đề xuất. Cũng cần đẩy lùi các tuyên bố hoặc hành động ủng hộ độc lập của các nhà lãnh đạo Đài Loan. Nói tóm lại, Mỹ phải có khả năng phòng thủ đáng tin cậy để bảo vệ Đài Loan, đồng thời đưa ra một cam kết đáng tin cậy nhằm mục đích ngăn chặn một trong hai bên đơn phương thay đổi hiện trạng.
Cách tiếp cận này chứa đầy thách thức do bản chất mâu thuẫn của nó. Việc tăng cường liên minh của Mỹ có thể làm giảm sự lạc quan về quân sự của Trung Quốc, nhưng cũng làm tăng cảm giác lo sợ về những điều có thể xảy ra. Tính cấp bách cần thiết để củng cố khả năng răn đe sẽ khó tương thích với sự thận trọng cần thiết trong ngoại giao giữa hai bờ eo biển – đặc biệt khi chính sách của Trung Quốc còn bị chi phối bởi chiến dịch bầu cử tổng thống Mỹ. Một Trung Quốc hùng mạnh nhưng đầy rắc rối đang đi theo hướng xấu. Mỹ và các đồng minh sẽ cần đến tất cả sức mạnh và sự tỉnh táo mà họ có thể tập hợp được để ngăn chặn nguy cơ trượt dài vào chiến tranh.
Michael Beckley là phó giáo sư khoa học chính trị tại Đại học Tufts và là nghiên cứu viên cấp cao không thường trú tại Viện Doanh nghiệp Mỹ.
Hal Brands là giáo sư về các vấn đề toàn cầu tại Trường Nghiên cứu Quốc tế Cấp cao Johns Hopkins và nghiên cứu viên cấp cao tại Viện Doanh nghiệp Mỹ.