Một trích dẫn sách và phỏng vấn với Michael O’Sullivan, tác giả của “The Levelling” của Michael O’Sullivan – Nguyễn Quang A dịch
THẾ GIỚI có đã chứng kiến “dân chủ tột đỉnh”? Có phải thế giới tương lai trong đó các xã hội với các thị trường tự do ganh đua vì ảnh hưởng về công việc toàn cầu với các nước độc đoán theo chủ nghĩa tư bản nhà nước? Chính các câu hỏi gợi lên một nỗi luyến tiếc một quá khứ có vẻ đơn giản hơn. Đối với Michael O’Sullivan, trước đây là một nhà ngân hàng đầu tư và kinh tế gia tại Đại học Princeton University, là hữu ích hơn để xem xét tương lai.
Cuốn sách của ông O’Sullivan, “The Levelling: What’s Next After Globalization-Sự San bằng: Cái gì Tiếp sau Toàn cầu hoá” cho một lộ trình. Ông thấy một thế giới đa cực đang hình thành nhưng các định chế quốc tế chưa được chuẩn bị trước cho việc này. Ông lên tiếng lo ngại về một thế giới tăng trưởng thấp và nợ nần cao – và kêu gọi một “hiệp ước thế giới về rủi ro” để cho các ngân hàng trung ương chỉ dùng đến các biện pháp như nới lỏng định lượng (quantitative easing) dưới các điều kiện đã thoả thuận.
Nhưng sự định khung hấp dẫn nhất của ông về các vấn đề là sự so sánh của ông về thế giới ngày nay với các Cuộc tranh luận Putney (Putney Debates) của Anh Quốc thế kỷ thứ 17, khi những vấn đề thực tế của một nền dân chủ dựa vào các quyền (rights-based democracy) lần đầu tiên được đề ra bởi một phái gọi là “The Levellers-Những người San bằng” (mà đã gây cảm hứng cho tiêu đề của cuốn sách). Thế giới, ông tin, sẽ tách ra thành các nước “San bằng” mà theo các quyền và các quyền tự do, và các nước “Leviathan-Thuỷ quái” mà thoả mãn với sự tăng trưởng do nhà nước-quản lý và ít các quyền tự do hơn.
Như phần của sáng kiến Tương lai Mở (Open Future initiative) của The Economist, chúng tôi đã thăm dò các ý tưởng của ông O’Sullivan trong một phỏng vấn ngắn. Dưới cùng là một trích đoạn từ cuốn sách của ông, về sự kết thúc của toàn cầu hoá.
* * *
The Economist: Mô tả những gì đến sau toàn cầu hoá – ông đoán trước thế giới sẽ giống thế nào?
O’Sullivan: Toàn cầu hoá đã ở đằng sau chúng ta rồi. Chúng ta phải nói lời tạm biệt với nó và hãy chú tâm đến thế giới đa cực đang nổi lên. Thế giới này sẽ bị chế ngự bởi ít nhất ba khu vực lớn: Mỹ, EU và một châu Á với Trung Quốc là trung tâm. Chúng sẽ ngày càng theo những cách tiếp cận rất khác nhau đối với chính sách kinh tế, tự do, chiến tranh, công nghệ và xã hội. Các nước cỡ trung như Nga, Anh, Australia và Nhật Bản sẽ vật lộn để tìm chỗ của họ trên thế giới, trong khi các liên minh mới sẽ nổi lên, như một “Liên minh Hanseatic 2.0” của các nhà nước nhỏ, tiên tiến như các nhà nước Scandinavia và các nước Baltic. Các định chế của thế kỷ thứ 20 – Ngân hàng thế giới (World Bank), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) – sẽ có vẻ ngày càng không hoạt động.
The Economist: Cái gì đã giết toàn cầu hoá?
Michael O’Sullivan: Ít nhất hai thứ đã chấm dứt toàn cầu hoá. Thứ nhất, sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã chậm lại, và như một kết quả, sự tăng trưởng đã trở nên “được tài chính hoá” hơn: nợ đã tăng lên và đã có nhiều “hoạt động tiền tệ (monetary activism) hơn” – tức là, các ngân hàng trung ương bơm tiền vào nền kinh tế bằng việc mua các tài sản, như các trái phiếu và trong một số trường hợp thậm chí cổ phiếu – để duy trì sự bành trướng quốc tế. Thứ hai, các tác động phụ, hay đúng hơn các tác động phụ được cảm nhận, của toàn cầu hoá là rõ ràng hơn: sự bất bình đẳng về của cải, sự thống trị của các công ty đa quốc gia và sự phân tán của các chuỗi cung toàn cầu, mà tất cả đã trở thành các vấn đề chính trị nóng bỏng.
The Economist: Cái chết của toàn cầu hoá đã là không thể tránh khỏi hay đã có thể (và phải) được ngăn chặn?
O’Sullivan: Một nhân tố rắc rối ở đây là không có cơ quan hay nhà chức trách trung ương nào để định hình toàn cầu hoá, có lẽ ngoài Diễn đàn Kinh tế Thế giới (World Economic Forum) hay có lẽ Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Theo nhiều cách, sự chấm dứt của toàn cầu hoá được đánh dấu bởi sự đáp lại tồi và không dứt khoát đối với khủng hoảng tài chính toàn cầu. Nhìn chung, sự đáp lại đã là để cắt chi phí vốn và không giải quyết các nguyên nhân gốc rễ của cuộc khủng hoảng. Như vậy, nền kinh tế thế giới sẽ khập khiễng, bị nợ nần chồng chất và mắc nợ tiền dễ vay từ các ngân hàng trung ương.
The Economist: Tiêu đề của cuốn sách đến từ “các Leveller” trong các cuộc Tranh luận Putney của Anh trong giữa các năm 1600. Họ đã là những ai và câu chuyện của họ có thể dạy chúng ta ngày nay?
O’Sullivan: Các Leveller (người San bằng) là một viên ngọc bị che giấu từ lịch sử Anh. Họ đã là một nhóm giữ thế kỷ thứ 17 ở Anh, những người đã tham gia vào các cuộc tranh luận về dân chủ mà đã xảy ra ở một phần của London được gọi là Putney. Thành tựu của họ đã là việc soạn ra “Một Thoả thuận của Nhân dân,” một loạt bản tuyên ngôn mà đã đánh dấu các quan niệm phổ biến đầu tiên về cái một nền dân chủ hiến định có thể giống như thế nào.
Các Leveller là đáng chú ý vì hai lý do. Thứ nhất, trong khung cảnh thời gian, cách tiếp cận của họ đã mang tính xây dựng và thực tiễn. “Thoả thuận” nói rõ những gì nhân dân muốn từ những người cai trị họ theo một cách rõ ràng và đích xác. Thí dụ, họ đã đề xuất các giới hạn nhiệm kỳ cho chức vụ chính trị và rằng các luật liên quan đến sự mắc nợ được áp dụng ngang nhau cho những người giàu và nghèo.
Thứ hai, họ là đáng chú ý vì cách phong trào đã bị huỷ bỏ và rồi bị làm tiêu tan bởi nhà lãnh đạo quân sự Oliver Cromwell và các Grandee [các nhà Quý tộc] (các elite thời của họ). Giống nhiều khởi nghiệp chính trị (political start-up), các Leveller đã thất bại. Việc này phải cổ vũ số tăng lên của các đảng chính trị mới, như Change UK (được thành lập tháng Ba 2019) và các ứng viên mới nên lọc lõi trong cách họ tiếp cận quá trình cải cách và thay đổi chính trị.
The Economist: Ông thấy trước các định chế quốc tế mới để thay thế các định chế thế kỷ 20 cổ xưa mà đã phù hợp với một thời khác. Chúng sẽ hoạt động ra sao? Và các nước với các giá trị khác nhau như vậy (tức là, “các Leveller” dân chủ, dựa vào thị trường và các xã hội và các nền kinh tế do nhà nước quản lý, “các Leviathan”) có thực sự hợp tác?
O’Sullivan: Nhiều là từ sự tranh đua Chiến tranh Lạnh giữa nước Nga cộng sản và Mỹ, và bây giờ một số người muốn thấy một sự đụng độ của các nền văn minh giữa Mỹ và Trung Quốc. Cuốn “Levelling”mô tả đặc điểm một tương lai nơi có ít nhất hai cách tiếp cận đến đời sống công.
Cách tiếp cận phân biệt nhất đến các quốc gia làm các thứ theo cách của riêng họ sẽ là cho cái mà các Leveller có thể gọi là “các quyền của những người vốn sinh ra tự do,” hay ý tưởng về xã hội mở. Luật lệ của các Leveller bày tỏ một công thức chính trị rất rõ ràng mà những người Âu châu và Mỹ sẽ thừa nhận vì các giá trị của nó, tuy giảm dần trong việc thực hành của nó.
Thách thức đối với luật lệ này sẽ đến từ sự chấp nhận tăng lên của những cách ít dân chủ hơn để sai khiến xã hội, ở các nước cả đã phát triển lẫn đang phát triển. Một sự đụng độ liên quan sẽ là mong muốn của một tỷ lệ tăng lên của các cử tri để có một xã hội mở hơn khi các nền kinh tế cũng mở ra.
Vì thế giới tiến triển theo các tuyến của các xã hội kiểu-Leveller và kiểu- Leviathan, có khả năng rằng trong một số nước, như nước Nga, một cách tiếp cận giống-Leviathan – tức là, trật tự để đổi lấy nền dân chủ và các quyền bị giảm đi – sẽ là cách sống được chấp nhận. Ở những nước khác, lý thú nhất là Trung Quốc, khi nền kinh tế của nó mất đà và tiến triển, có thể có sự căng thẳng tăng lên giữa các nhóm có quan điểm Leviathan (tất nhiên được các Grandee [elite] ủng hộ) và các nhóm đối lập giống-Leveller (những người ủng hộ sự bình đẳng cơ hội và một hệ thống đa đảng). Vai trò và các quan điểm của phụ nữ, đặc biệt ở Trung Quốc, và của các nhóm thiểu số như cộng đồng đồng tính sẽ là mấu chốt.
Sự nổi lên của một trật tự thế giới mới, dựa vào các khu vực lớn và mang màu sắc của các phương thức cai quản Leveller và Leviathan, dội lại vài thời kỳ trong lịch sử. Thách thức trong vài năm tới sẽ là cho các quốc gia định hướng-Leviathan như Trung Quốc để duy trì sự ổn định kinh tế sao cho nạn thất nghiệp tăng lên, chẳng hạn, không phá vỡ “khế ước Leviathan”. Như nhau, thách thức ở các nước Leveller sẽ là để duy trì các xã hội mở, mang tính anh em đối mặt với tính hay thay đổi chính trị và kinh tế tiềm tàng.