Thơ gởi con nhân mùa lễ Vu Lan!

Melbourne, ngày… tháng… năm.

Con của Ba!

Tối nay Ba đi làm về đã mười hai giờ rưỡi đêm. Ba mỏi, mệt vì phải làm việc suốt tám tiếng đồng hồ, cộng thêm bốn tiếng nữa để đáp xe lửa, leo xe tram, ngồi xe bus mới về được tới nhà. Nhà mình dẫu mướn nhưng luôn luôn là nơi Ba muốn về nhất để gặp Má con, anh Tí và con. Đó là nơi Ba thấy đáng yêu nhất. Gia đình chính là nguyên nhân của tất cả mọi nguyên nhân mà Ba, Má con phải làm việc vất vả. Tất cả chỉ vì con.

Vậy mà khi về tới nơi, dẫu khuya, đèn vẫn còn chong, hắt ra khung cửa kiếng là một bóng cô đơn. Má con lặng lẽ ngồi, cặm cụi may từng chiếc áo một, kiếm từng mươi xu lẻ để sống sót nơi đất lạ quê người. Ba hỏi con đâu? Má con buồn bã trả lời: Thằng Tèo vẫn chưa về.

Con đã đi chơi suốt từ chiều thứ sáu cho đến nay là tối thứ hai rồi. Hơn ba ngày đêm con không có mặt ở nhà. Vắng ngắt nhà. Mênh mông nhà. Không tiếng chân bước vào ra. Ngoài cửa, gió mùa đông Melbourne rét căm căm.

Bao nhiêu buồn Ba nhất là Má con đang chịu, con có biết không? Ba nghĩ là con biết. Nhưng Ba không hiểu tại sao con lại nỡ dửng dưng trước nỗi đau khổ của Ba và Má. Ba tin rằng trong lòng con, con vẫn còn thương Ba Má lắm phải không?

Có lần đi chơi khuya về, tình cờ con gặp ba trên chiếc xe tram đầy mỏi mệt. Rồi cha con mình may mắn chung một đoạn đường về. Ba nói may mắn vì hiếm hoi lắm cha con mình mới có dịp đi bộ cùng nhau. Đột nhiên mình bắt gặp một cánh chim cô đơn, đậu trên nhánh bạch đàn, đong đưa theo mưa gió. Có phải là chim Việt nhớ cành Nam? Nhà mình đâu? Quê mình đâu? Sao biết được ngày bay về tổ cũ!

Ba còn nhớ mùa nước lụt năm 1978, ba năm sau ngày miền Nam sụp đổ. Nước tràn mênh mông vườn của Ngoại. Rắn bò cả vào nhà. Gạo không có mà ăn, phải độn khoai lang, khoai mì. Nước cơm pha chút đường dành cho con thay sữa. Ba phải đi hái lá tàu bay, đem luộc làm canh. Nước pha muối để thay nước mắm. Có con gà nuôi dành giỗ nội thì hàng xóm bắt trộm, ăn mất rồi.

Ba buồn nhưng không giận. Vì không phải riêng nhà mình chịu đói. Cả dân tộc lầm than! Mình có nước mà mình không biết giữ để đến nông nỗi này!

Cuối cùng bị dồn đến chân tường, không lẽ ở lại chịu chết, Má con đành phải bán tư trang ngày cưới để có tiền, làm lộ phí cho Ba bế con đi. Nhà mình xẻ hai. Xẻ đàn tan nghé. Ba với con ra đi; Má và anh Tí ở lại để lỡ có bị bắt còn có kẻ thăm nuôi. Vã lại mình cũng không có đủ tiền, vàng chung cho bốn chỗ.

Ngày cha con mình đi, Cần Thơ chìm trong tối. Lúc bế con xuống ghe nhỏ chờ ra tàu lớn, con khóc. Ai bị buộc rời xa quê cha đất tổ, chỗ chôn nhau cắt rún trong một hoàn cảnh bi thương như thế, làm sao mà không khóc?

Ba phải cho con uống ‘sirop Phenergan’ để con ngủ. Rồi lênh đênh trên biển, trong mịt mùng dông bão, đói, khát, cướp biển Thái Lan. Cuối cùng tàu cũng đến được Pulau Bidong. Con lả người trên tay Ba. Ba bế con, bước đi xiêu vẹo vì vẫn còn say sóng. “Xin hãy cứu con tôi!” Đó là lần đầu tiên trong đời Ba đã phải van xin.

***

Vậy mà mấy năm sau khi Má và anh Tí con được lãnh qua, ngày gặp lại Má con ở phi trường Melbourne, con chỉ nói được ‘Hi! Mum’ rồi thôi.

Má con nói với Ba rằng mới xa thằng Tèo có mấy năm mà nó đổi thay nhiều quá. Vỏ nó vàng nhưng ruột đã trắng rồi. Hồi ở bên nhà, sợ con mình lớn lên, họ bắt đi nghĩa vụ, chết ở bên Miên. Còn qua bên này, xa hoa, phù phiếm đã bắt mất nó rồi. Ở đâu mình cũng không giữ được con mình. Hồi nhỏ cho nó một cục kẹo, nó cũng mừng; bây giờ mình cho nó cả cuộc đời nó cũng không nhận.

Mười năm, hai chục năm nữa khi Ba Má đã già, cát bụi sẽ trở về cát bụi. Cha còn gót đỏ như son. Đến khi Cha mất gót con lấm bùn.

Ngày hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Mười hai tiếng làm việc và di chuyển. Tám tiếng ngủ để hồi sức lao động. Chỉ còn bốn tiếng vào, ra để gặp mặt hai con. Ba đã bán năm phần sáu đời mình cho vòng đời tư bản khốc liệt cạnh tranh để đổi lại vỏn vẹn một phần sáu vô cùng cho cõi thương yêu. Vậy mà cũng không được!

Ba cũng có má giống hệt như con có. Đó là bà Nội của con. Chẳng may Má của Ba mất sớm, rất sớm. Vì sức tàn lực kiệt, đèn khô dầu lụi bấc, qua những ngày, tháng, năm mưa dầm nắng dãi, sớm tần hôm tảo nuôi đàn con nheo nhóc ăn học.

“Mẹ già như chuối chín cây. Gió đưa mẹ rụng con rày mồ côi.” Câu hát ru đó đã theo Ba suốt thời quần xanh áo trắng, qua dấu lửa binh, xuống tàu vượt Thái Bình Dương; rồi đất lạ quê người. Ba chắc rằng câu hát ru đó sẽ còn theo Ba mãi, cho đến khi Ba về với Nội.

Bây giờ nghĩ lại ngày ba còn thơ dại như con, đôi khi dửng dưng, vô tình làm Má buồn, Ba khổ giống như những gì con đã và đang làm đối với Ba Má bây giờ. Ba đã hối hận biết bao khi Má mình không còn nữa. Có nụ cười nào rạng rỡ hơn khi Má mình thấy mình lẫm đẫm tập đi, bập bẹ tập nói. Có tiếng khóc nào chua xót hơn, đèn đêm đối bóng khi Má mình biết mình trốn học, rong chơi.

Làm được gì bây giờ nữa hở con? Có chăng chỉ là một đóa hoa màu trăng trắng, cài lên ngực áo, trong mùa lễ Vu Lan, như thầm nói với đời rằng: mất Má rồi đời chỉ là một dải khăn tang.

***

Ai cũng thích đi chơi hết. Đi chơi vui lắm. Người ta thường bảo sân nhà hàng xóm cỏ chắc xanh hơn. Nhưng Tèo con ơi! luống hoa hồng vườn Botany sao đẹp bằng luống rau Má con trồng bên hè nhà mình ở. Con Bulldog nhà hàng xóm sao bằng con Mực nhà ta. Mc Donald’s sao ngon bằng dĩa cơm tấm tình quê. Lẩu nhà hàng Tàu sao ngon bằng nồi canh chua Má nấu.

Con trách sao con tên Tèo. Cái tên gợi nhớ quê nghèo đã xa. Cái tên Tony sao bằng cái tên Tèo yêu dấu của đồng chua nước mặn; của những dải bần xanh.

Có thể con cho Ba là lạc hậu, là bảo thủ, là xưa rồi. Nhưng Ba tin rằng có những điều chưa sáng tỏ bây giờ sẽ hoàn toàn đúng trong mươi năm nữa khi con ngồi nghĩ lại.

Ngày mình đi Cần Thơ chìm trong tối. Ngày con về chốn cũ chắc bình minh. Má là quê hương. Quê hương là Má. Quê hương con còn có thể tìm lại được; chớ mất Ba, mất Má rồi thì thôi đã hết trông mong.

“Má ơi chim vịt chết chìm. Thò tay vớt nó con cá lìm kìm cắn tay.”

Mười năm, hai mươi năm nữa biết con còn có Má để mà kêu mà réo nữa hay không?

Thư bất tận ngôn.

Ba của con.

Đoàn Xuân Thu.

Melbourne.

Related posts