Cha và con gái

Con gái còn nhỏ mà năm nào cha cũng đi xa. Để cha viết cho con vậy.

“Cha hái cho con bông hoa này trên cồn cát… Bông hoa dại tưới bằng sóng nước đại dương… Sau đó, thiên thần của cha ơi, cha đã viết tên con trên cát: DIDI. Đêm nay sóng nước sẽ xoá sạch đi, nhưng có một thứ không có gì xoá được, là tình yêu cha dành cho con đó. (…)”.

“Tạm biệt con, Didi của cha. Con giữ thư này lại nhé. Khi con lớn lên, cha sẽ già đi, con đưa thư cho cha xem và cha con ta sẽ yêu thương nhau nhiều, rồi đến khi con già, cha không còn nữa, con sẽ đưa thư cho các con của con xem, chúng sẽ yêu con như cha yêu con vậy. Hẹn con lần sau.”

Didi, Didine, là tên thân mật. Tên thật của con gái dài lắm, Léopoldine Cécile Marie-Pierre Catherine Hugo. Con gái thứ hai, nhưng vì anh trai vắn số, chỉ thấy mặt trời được 5 tháng nên con gái thay làm trưởng, và, tất nhiên rồi, được cha cưng chiều lắm. Con gái thường quấn quít bên cha và lớn lên trong không khí gia đình văn nghệ sĩ, với sự hiện diện thường xuyên của các nhà văn, nhà thơ như Théophile Gautier, Lamartine, Georges Sand, Balzac…

Con gái lớn nhanh, và biết yêu sớm. Mùa hè năm 1839, khi mới 14 tuổi, nhân dịp cùng cả nhà đến thăm người bạn của gia đình, là chủ tàu buôn ở le Havre, con gái gặp con trai chủ nhà, Charles Vacquerie, 21 tuổi, và cả hai cùng bị tiếng sét ái tình ngay lần đầu gặp gỡ này và muốn tiến xa.

Cha nghĩ là con gái còn nhỏ quá nên chưa tán thành việc hôn nhân. Cha không thích chàng trai kia lắm, cha thấy hắn có vẻ tẻ nhạt, hơi nhu nhược và nhất là chẳng có chút kiến thức văn chương, trong khi con gái thật thông minh, linh hoạt. Nhưng rồi cũng chỉ trì hoãn được 5 năm. Hôn lễ tổ chức tại nhà thờ Saint-Paul ngày 15 tháng 2 năm 1843, khi con gái được 19 tuổi.

Ngày hôm đó, ngay trong nhà thờ, cha viết cho con một bài thơ (bởi cha là nhà thơ, nhà văn, nhà viết kịch, nhà chính trị Victor Hugo) bày tỏ nỗi niềm “hạnh phúc đớn đau” khi giao con gái yêu quý của mình cho người khác (bonheur désolant de marier sa fille):

“Aime celui qui t’aime, et sois heureuse en lui!
Adieu!- sois son trésor, ô toi qui fus le nôtre!
Va, mon enfant chéri, d’une famille à l’autre.
Emporte le bonheur et laisse-nous l’ennui!

Ici, l’on te retient ; là- bas on te désire.
Fille, épouse, ange, enfant, fais ton double devoir.
Donne-nous un regret, donne lui un espoir.
Sors avec une larme! entre avec un sourire!”

Dịch nghĩa:

“Hãy yêu người yêu con, cùng sướng vui bên người ấy
– Tạm biệt – hãy là kho báu nhà người, nhé con, kho vàng bao ngày nhà ta,
Con gái yêu ơi, từ nhà này chuyển sang nhà kia,
Cứ đi, đem theo hạnh phúc, buồn lo hãy để lại nhà!

Nơi đây, muốn giữ con lại, ở kia, mong đón con về
Con thảo, vợ hiền, thiên thần, trẻ nhỏ, bổn phận đôi bên hãy lo tròn,
Để lại nhung nhớ, mang tới ước mong,
Bước ra lệ tràn khoé mắt! Đi vào nụ cười trên môi!”

Tình cảm quyến luyến, lời dặn dò tiễn con đi, tưởng đâu chỉ có ở người phụ nữ, như trong bài Lòng mẹ của Nguyễn Bính:

“Gái lớn ai không phải lấy chồng
Can gì mà khóc, nín đi không!
Nín đi, mặc áo ra chào họ
Rõ quý con tôi, các chị trông!

(…)

Ðưa con ra đến cửa buồng thôi,
Mẹ phải xa con, khổ mấy mươi!
Con ạ! đêm nay mình mẹ khóc
Ðêm đêm mình mẹ lại đưa thoi”.

Vậy mà, ở đây người cha cũng chẳng khác:

“Tôi buồn lắm, cái buồn sâu lắng, khác nào tình cảm của người trồng hoa khi khách qua đường ngắt đi đoá hoa của mình. Lúc nãy, tôi đã khóc…”

Bài thơ không có nhan đề, sau này in lại trong tập Contemplations (Trầm tư) chỉ ghi là “12 Février 1843”.

Vì không có nhan đề nên đã có lúc, thoát khỏi hoàn cảnh xuất xứ của bài, có người đã giới thiệu nó như lời nhắn gởi cô dâu mới (À une jeune mariée) và mang ra đọc trong các tiệc cưới, có thể kèm theo bản dịch của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc:

“Đáp lòng yêu tân lang,
Hạnh phúc cùng chia xẻ,
Con đến chốn người thương
Như ở đây ta quý.

Bước sang thềm nhà chồng
Con cho người hoan hỉ.
Ở nhà ta ra đi,
Ưu tư, con luống để.

Nhà ta giữ con lại,
Nhà người đứng trông chờ.
Đấy, làm con làm vợ,
Đây, thiên thần, trẻ thơ :
Con ơi, nhớ bổn phận,
Đôi vai chớ hững hờ…

Cho ta chút luyến tiếc,
Cho người một ước mong.
Rời đây tuôn giọt lệ,
Sang đó nở môi hồng…”

(Gửi Cô Dâu Mới, bản dịch của Lãng Nhân Phùng Tất Đắc – 1907-)

Rồi cha vẫn tiếp tục sự nghiệp văn chương của mình, còn con gái cùng chồng về xứ. Mọi việc sẽ êm xuôi nếu không có cái ngày 4 tháng 9 định mệnh đó.

Ngày 4 tháng 9 năm 1843.

Sáng sớm, Charles Vacquerie chuẩn bị đi gặp luật sư để hỏi về thủ tục thừa kế. Nơi đến cách nhà vài cây số, ven sông Seine. Cùng đi là ông chú, Pierre Vacquerie, và con trai của chú. Léopoldine không tháp tùng vì chuẩn bị chưa xong. Cả ba khởi hành trên chiếc thuyền buồm ông chú mới tậu, hẹn sẽ về kịp bữa ăn trưa. Một lát sau, thuyền quay trở lại để trang bị thêm tải trọng dằn cho vững hơn. Léopoldine lúc này đã sẵn sàng ngỏ ý muốn đi cùng. (Ôi! Định mệnh trớ trêu!)

Sau khi đến nơi, làm việc xong, vị luật sư đề nghị mọi người trở về bằng xe ngựa vì trời lặng gió, thuyền buồm di chuyển chậm, sẽ về rất trễ. Tuy nhiên đoàn khách không chịu và vẫn đi thuyền về.

Chú Pierre, cựu thuỷ thủ, cầm lái điều khiển con thuyền êm ả lướt về. Đến khúc sông giữa hai ngọn đồi, một cơn lốc mạnh bất ngờ đập trên cánh buồm khiến con thuyền lật úp. Hai cha con người chú bị cuốn trôi. Dân trên bờ bên kia thấy có người nhô lên ngụp xuống nơi chiếc thuyền, cứ tưởng là trò đùa nghịch, nào hay đó là những nỗ lực của anh chồng muốn nắm lấy tay vợ kéo lên vì quần áo Léoploldine vướng vào đáy thuyền cột chặt lấy cô. Tuy biết bơi rất giỏi, anh vẫn không thể cứu được vợ và đành chấp nhận buông xuôi để dòng nước cuốn theo.
Léopoldine lúc này mới 19 tuổi và lấy chồng chưa đầy 7 tháng.

Khi con gái gặp nạn, cha đang cùng nhân tình (Juliette Drouet) du lịch tận miền Nam, và năm ngày sau, lúc đọc báo mới biết được tin dữ. Cha trở về Paris thì con gái đã yên nghỉ tại nghĩa trang Villequier, trong cùng huyệt mộ với chồng. Ba năm sau, cha mới có dịp về thăm mộ con gái, nhìn tấm bia khắc tên đôi vợ chồng trẻ, ngày cưới và ngày mất.

Suốt nhiều năm sau khi con gái bị nạn, cha không công bố thêm tác phẩm nào. Năm 1845, cha bắt đầu đi vào chính trị. Năm 1848, ông được bầu làm nghị sĩ hội đồng lập hiến. Ông lên án cuộc đảo chính ngày 2 tháng 12 năm 1851 của Hoàng tử Louis-Napoléon (cháu của Napoléon Bonaparte). Ngay lập tức, Ông bị buộc đi đày ở Bỉ, sau đó là đảo Jersey và Guernesey.

Mãi đến 1853 cha mới cho ra đời tập thơ: “Les Châtiments”, và sau đó “Les Contemplations” (1856) và tiểu thuyết les Misérables (1862).

Cha dành cuốn số 4 (17 bài) trong sáu cuốn của tập thơ les Contemplations để viết về con gái, kỷ niệm ấu thơ, chiêm nghiệm về tình yêu, lẽ sống và cõi chết. Bài thơ viết trong nhà thờ ngày con gái vu quy nói trên (12 février 1843) được in kèm với bài 4 septembre 1843 là trang giấy trắng, với một dòng gồm những dấu chấm lửng.

Cũng trong tập này, có bài thơ không tên, thường được nhắc tới với mấy chữ đầu tiên là Demain, dès l’aube:

Demain, dès l’aube, à l’heure où blanchit la campagne,
Je partirai. Vois-tu, je sais que tu m’attends.
J’irai par la forêt, j’irai par la montagne.
Je ne puis demeurer loin de toi plus longtemps.

Je marcherai les yeux fixés sur mes pensées,
Sans rien voir au dehors, sans entendre aucun bruit,
Seul, inconnu, le dos courbé, les mains croisées,
Triste, et le jour pour moi sera comme la nuit.

Je ne regarderai ni l’or du soir qui tombe,
Ni les voiles au loin descendant vers Harfleur,
Et quand j’arriverai, je mettrai sur ta tombe
Un bouquet de houx vert et de bruyère en fleur.

Dịch nghĩa:

Ngày mai, ngay lúc rạng đông, khi vùng quê bừng sáng,
Cha sẽ lên đường. Con thấy không, cha biết con đang chờ đợi cha
Cha sẽ đi qua rừng, cha sẽ đi qua núi.
Cha không thể nào ở xa con lâu hơn nữa.

Cha sẽ bước đi, mắt chìm sâu trong suy tưởng
Không nhìn quanh, chẳng nghe động tĩnh chi,
Cô đơn, lạc lõng, lưng khòm, tay chắp,
Sầu đau, với cha ngày cũng sẽ như đêm.

Cha sẽ không ngắm ánh chiều vàng đang xuống,
Cũng không nhìn những cánh buồm xa thẳm hướng Harfleur,
Và khi tới, cha sẽ đặt trên mộ con
Chùm ô rô xanh lá và thạch thảo trổ hoa.

(Dịch sang tiếng Việt nên je – tu phải viết ngay là cha – con. Đọc nguyên bản tiếng Pháp, với những câu như “je sais que tu m’attends”, “Je ne puis demeurer loin de toi plus longtemps”…, cho đến hết câu thứ 10, người đọc dễ cảm nhận đây là cuộc hẹn hò của đôi tình nhân.
Đến hai câu cuối
Et quand j’arriverai, je mettrai sur ta tombe
Un bouquet de houx vert et de bruyère en fleur.
thì mới bàng hoàng vì cuộc hẹn hò đặc biệt này.)
 
 

Bản dịch của Trần Mai Châu

Cha đã biết ngày mai con đợi
Nên khởi hành lúc mới rạng đông
Quá dài ngày tháng chờ trông
Xăm xăm vượt núi băng rừng đến con.

Đầu óc cha dập dồn mọi nỗi
Mắt biếng nhìn tai mỏi không nghe.
Tay khoanh đầu cúi ủ ê
Một mình ngày nắng khác gì đêm mưa.

Cha không thấy trời vừa chạng vạng
Mấy cánh buồm ghé cảng Haflơ
Viếng con cha đặt trên mồ
Một chùm thạch thảo đến giờ nở hoa.
 
 

Bản dịch của Vương Ngọc Long

Rạng ngày mai khi cánh đồng trắng xoá
Cha sẽ đi… vẫn biết con chờ cha
Băng rừng sâu vượt núi thẳm non xa
Cha không thể đợi chờ lâu mòn mỏi

Đôi mắt mãi trầm tư cha bước vội
Không nhìn quanh chẳng nghe tiếng động nào
Khom lưng cong tay vắt chéo nghẹn ngào
Đêm sầu đau cũng như ngày nuối tiếc

Hoàng hôn phủ chiều vàng cha chẳng thiết
Chẳng nhìn xa phía cảng ngập màn sương
Cha đến đặt trên mồ con gái thương
Hoa thạch thảo ô rô màu thắm biếc…

Con gái yêu thương Léopoldine, Didine, Didi, mười chín mùa xuân, là một nốt nhạc buồn trong cuộc đời lắm vinh quang mà đầy sóng gió của người cha Victor Hugo, đại văn hào nước Pháp.  

THÂN TRỌNG SƠN

Related posts