Thị trường kinh tế chia sẻ có thể bị các tập đoàn đa quốc gia lũng đoạn, chi phối

  • Nguyễn Minh

Mô hình kinh tế chia sẻ (còn được gọi là tiêu dùng cộng tác) có thể bị lũng đoạn bởi doanh nghiệp kinh tế chia sẻ, lớn hơn thế, là nguy cơ các tập đoàn đa quốc gia thâu tóm các doanh nghiệp kinh tế chia sẻ, lũng đoạn và chi phối thị trường kinh tế chia sẻ – đại diện Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư đưa ra cảnh báo hôm 8/12. 

Nhiều tài xế Grab tiếp tục đình công để phản đối việc bị tăng mức khấu trừ khi Grab bị áp thuế VAT 10%, ngày 11/9/2020.
(Ảnh: CTV/Trí thức VN)

Nhà đầu tư ngoại đang đổ vào thị trường kinh tế chia sẻ Việt Nam

Quy mô dân số 96,2 triệu người (năm 2019), với 68,8% dân số đang sử dụng điện thoại di động – tương đương 64 triệu người, trên 47 triệu thuê bao băng rộng di động, 13 triệu thuê bao internet băng rộng cố định…, Việt Nam là thị trường tiềm năng cho các dịch vụ trực tuyến theo mô hình kinh tế chia sẻ.

Tại hội thảo lấy ý kiến về “Báo cáo đánh giá tác động của một số loại hình kinh tế chia sẻ chính tới nền kinh tế”, báo cáo do CIEM thực hiện cho biết một số mô hình kinh tế kinh tế chia sẻ tại Việt Nam đang có nguy cơ bị các tập đoàn đa quốc gia thâu tóm và lũng đoạn.

Như Grab, Fastgo… đang nắm giữ phần lớn thị phần của mạng lưới dịch vụ vận tải trực tuyến Việt Nam; Airbnb, Expedia,… chi phối lĩnh vực dịch vụ chia sẻ phòng ở. Đối với lĩnh vực tài chính – ngân hàng, dịch vụ P2P lending đang chủ yếu do các nhà đầu tư có nguồn gốc từ Trung Quốc, Nga, Indonesia, Singapore… chi phối.

Các tập đoàn đa quốc gia với ưu thế về vốn và công nghệ đẩy mạnh mua lại cổ phần chi phối tại các công ty thuộc loại hình kinh tế chia sẻ ở Việt Nam, chấp nhận thua lỗ trong ngắn hạn để chiếm lĩnh thị trường (như với Tiki, Sendo…), khi nắm vai trò chi phối các chủ thể tham gia các mô hình kinh doanh chia sẻ ở trong nước, mạng lưới này dần được kết nối với mạng lưới các chi nhánh ở nước ngoài.

Kinh tế chia sẻ: Xu thế số hóa với nhiều rủi ro biến tướng 

CIEM đưa ra 10 tác động của một số loại hình kinh tế chia sẻ chính tới nền kinh tế Việt Nam, bao gồm từ tác động về đầu tư, nguồn lực, thị trường, tính minh bạch, cơ cấu kinh tế, chính sách thuế, quan hệ lao động… cho đến thể chế, tính an ninh, tự chủ của nền kinh tế.

Kinh tế chia sẻ được xác định giúp huy động phương tiện, tài sản nhàn rỗi vào sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực cho phát triển; thúc đẩy lĩnh vực đổi mới sáng tạo; mở rộng và tăng nhanh các giao dịch kinh tế trên thị trường, bổ sung kênh kinh doanh mới bên cạnh kênh truyền thống; mở rộng cơ hội kinh doanh, thị trường, đa dạng hoá và tăng chủng loại sản phẩm, hàng hoá dịch vụ; thúc đẩy cạnh tranh, nâng cao hiệu suất, nâng cao tính minh bạch của thị trường; thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu và nâng cao hiệu quả của nền kinh tế….

Tuy nhiên, về hạn chế, TS Lưu Đức Khải, Phó Trưởng ban Ban Nghiên cứu các vấn đề xã hội (CIEM) nhận định mô hình này tiềm ẩn rủi ro như huy động đầu tư quá mức; nguy cơ bị các tập đoàn đa quốc gia thâu tóm các doanh nghiệp kinh tế chia sẻ trong nước, lũng đoạn và chi phối thị trường kinh tế chia sẻ; cạnh tranh không công bằng giữa kinh doanh truyền thống và kinh tế chia sẻ; nảy sinh xung đột lợi ích trong xã hội gây mất việc làm ở khu vực kinh tế truyền thống, lãng phí tài sản đã đầu tư của các doanh nghiệp truyền thống, gây bất bình đẳng trong xã hội…

Kinh tế chia sẻ còn có những rủi ro về chính sách và pháp lý với các chủ thể tham gia thị trường kinh tế chia sẻ; rủi ro về công nghệ, rủi ro trong giao dịch môi trường ảo và rò rỉ thông tin; rủi ro từ những biến tướng khó lường, khó kiểm soát của kinh tế chia sẻ…

Kinh tế chia sẻ nhờ dựa vào đổi mới sáng tạo, ứng dụng công nghệ, thúc đẩy hình thành doanh nghiệp công nghệ, nên có thể nâng cao năng lực độc lập, tự chủ về công nghệ cũng như tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, song cũng có thể khiến nền kinh tế tăng mức độ phụ thuộc vào bên ngoài, tiềm ẩn rủi ro về an ninh, an toàn, gia tăng các hoạt động kinh tế bất hợp pháp…

Kinh tế chia sẻ giúp tăng quy mô việc làm trong nhiều ngành dịch vụ nhưng cũng gây nên những rủi ro như người lao động có kỹ năng thấp sẽ trở nên yếu thế, lao động cao tuổi khó gia nhập thị trường. Các quan hệ lao động lúc này cũng trở nên phức tạp, khó kiểm soát và nảy sinh nhiều vấn đề đòi hỏi pháp luật về quan hệ lao động phải nhanh chóng điều chỉnh.

Ông Nguyễn Hoa Cương, Viện phó CIEM chỉ ra nhiều nguồn lực cho kinh tế chia sẻ không phải nguồn lực sẵn có mà là nguồn lực huy động, sử dụng đòn bẩy tài chính để tham gia kinh tế chia sẻ. Ví dụ, nhiều người vay tiền mua ô tô để chạy Grabcar, vay tiền mua nhà để kinh doanh Airbnb… Tuy nhiên, do tính bất ổn cao nên dễ gây thiệt hại cho người lao động, gây những rủi ro, bất ổn cho hệ thống tài chính.

Ông Phạm Xuân Hòe, nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển ngân hàng thẳng thắn nhận định Grab ở Việt Nam đã “biến tướng” vì nhiều người phải đi vay, đi nhờ người khác hỗ trợ để có thể tham gia.

“Nếu trường hợp nền kinh tế phát triển tốt, thị trường ưu ái cho mô hình đó thì có thể không gặp rủi ro. Tuy nhiên, trong trường hợp do ảnh hưởng của dịch COVID-19, không thể kinh doanh bằng xe công nghệ, tài xế không có thu nhập, không có khả năng trả nợ, rất dễ dẫn đến phá sản cá nhân”, ông Hòe cảnh báo.

Trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng, ông Hòe cho rằng kinh tế chia sẻ nâng cao hiệu quả hệ thống tài chính ngân hàng, gia tăng cạnh tranh, mang lại lợi ích hơn cho người tiêu dùng, tăng tính lành mạnh nếu kiểm soát tốt. Tuy nhiên ngược lại, nếu không kiểm soát tốt sẽ tạo nên nhiều khe hở như rửa tiền, bảo mật… đe dọa tính an toàn của hệ thống ngân hàng.

Theo đại diện Hiệp hội Taxi Hà Nội, không chỉ một vài lĩnh vực kinh tế truyền thống chịu tác động bởi kinh tế chia sẻ mà thực chất mọi ngành nghề đều đang số hóa, đòi hỏi sự nỗ lực lớn để thay đổi và thích nghi.

Luật quản lý có theo kịp để kiểm soát? 

Đại diện CIEM – TS Lưu Đức Khải nhận định mô hình kinh tế chia sẻ sẽ thúc đẩy, mở rộng cơ hội kinh doanh, tăng số lượng chủ thể tham gia thị trường đồng thời, đa dạng hóa và tăng chủng loại sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cung cấp. Ngoài ra, mô hình này cũng thúc đẩy cạnh tranh và tăng tính minh bạch của thị trường, nâng cao hiệu suất của một số ngành sản phẩm, dịch vụ.

Tuy nhiên, ngoài nguy cơ một số dịch vụ, sản phẩm thậm chí thị trường có thể bị lũng đoạn, mô hình kinh tế chia sẻ còn gây rủi ro chính sách và pháp lý đối với các chủ thể tham gia, chưa kể các biến tướng khó lường từ các bên.

Thực tế, thị phần của kinh tế chia sẻ của một số ngành sản phẩm dịch vụ ở Việt Nam đang chủ yếu do các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp nền tảng kết nối chi phối (ví dụ: Grab Car, Fastgo trên thị trường dịch vụ vận tải trực tuyến; Airbnb, Expedia trên thị trường dịch vụ chia sẻ phòng ở…). Trong khi đó, hệ thống pháp luật lại không theo kịp diễn biến phát triển của thị trường, đang để ngỏ nhiều khoảng trống pháp luật.

Ngay cả một số lĩnh vực đã có quy định pháp luật nhưng vẫn còn nhiều lỗ hổng để các doanh nghiệp nước ngoài khai thác, gây bất lợi cho thị trường trong nước. Ví dụ,  đối với hoạt động thương mại điện tử có vốn đầu tư nước ngoài, Luật Quản lý ngoại thương năm 2017 và Nghị định số 09/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định nhà đầu tư nước ngoài đã có giấy phép đầu tư kinh doanh thì cần có thêm giấy tờ kinh doanh đối với hoạt động cung cấp thương mại điện tử dưới dạng website (một công cụ trong quản lý ngoại thương). Tuy nhiên, quy định này vẫn còn có lỗ hổng vì chỉ quy định cho website mà không quy định cho ứng dụng điện thoại di động.

Ông Nguyễn Xuân Thủy, Phó Vụ trưởng Vụ Vận tải (Bộ GTVT) cho rằng cần hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về thị trường lao động liên quan đến phát triển từng loại hình kinh tế chia sẻ, cần hoàn thiện quy định về quyền tài sản và cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến những mất mát/tổn thương của doanh nghiệp kinh doanh truyền thống do bị cạnh tranh không lành mạnh, làm rõ trách nhiệm của các bên liên quan đến quyền lợi của người tiêu dùng…

Related posts