Các nhà văn nói về Môn Văn – Yến Nhi

Các nhà văn nói về Môn Văn – Yến Nhi

Nếu bộ môn văn, bỏ quên văn học miền nam trước 1975 và văn học hải ngoại là một thiếu sót lớn, cũng như bộ môn văn sẽ què quặt, chúng ta phải hiểu thật đúng đắn như vậy, khi chúng ta đúng là người VN và chúng ta không phải là người China.

Việc dạy- học văn trong nhà trường đã được nhiều thầy giáo, nhiều nhà văn và nhà giáo dục bàn bạc nhiều năm, nhưng cho đến nay thì vấn đề vẫn như là thời sự, vẫn đang sốt dẻo. Trong công cuộc đổi mới về phương pháp giảng dạy trong nhà trường thì môn Văn có những đặc thù, quên mất điều này mà chỉ lưu ý đến cái chung như những môn xã hội khác e không khỏi có những điều bất cập. Trung tâm vấn đề theo thiển ý chúng tôi là ở sự chưa thống nhất trong quan niệm về sự tiếp cận tác phẩm văn chương trong nhà trường trên hai phương diện nội dung và cách thức.Trong bài viết này chúng tôi thử tìm hiểu vấn đề dưới góc độ xem xét các ý kiến của các nhà văn- chủ thể sáng tạo nên các tác phẩm mà thầy giáo và học sinh tiếp cận (dạy- học), lọc ra những vấn đề hữu dụng cho việc nâng cao chất lượng bộ môn này.

1. Một thực trạng còn có vết gợn:   Chúng ta thấy có khá nhiều  giờ văn  tính tư tưởng lấn át tính thẩm mỹ, thầy giáo cố gắng khai thác những nội dung xã hội trong bài văn cho kỳ được để thỏa mãn các yêu cầu mà“biểu điểm” đánh giá  đưa ra, còn cái tiêu chí mà nhiều nhà giáo lâu năm tâm niệm“ cho rằng sức mạnh văn chương nói gì thì nói, vẫn cứ nằm nơi con tim. Dạy cho học sinh biết rung động trước những áng văn chương là cần hơn là dạy cho học sinh các thao tác“tam đoạn luận”, “bắc cầu”vv… (Vũ Xuân Túc- Ngữ văn nó cứ rối tung lên- VNTrẻ số 49), thì hầu như chưa thật chú ý đúng mức! Nhiều giáo viên vẫn còn  cho rằng trong môn Văn nội dung là cái quan trọng, hình thức là phụ, là cái vỏ, cái thuyền để chở nội dung nên khai thác càng nhiều nội dung tư tưởng càng đạt. Thực ra, trong văn chương, nghệ thuật, nội dung và hình thức là hai mặt  của một tờ giấy, không cái này thì cũng không cái kia, hình tượng văn chương là một chỉnh thể thẩm mỹ, nó không thể tách ra, cũng không thể bị xé nhỏ một cách cơ học làm mất đi tính biểu cảm- một đặc trưng cơ bản của nghệ thuật- cái điều khiến độc giả khoái trá thích thú.

Nhà văn Tô Hoài nói về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức trong việc giảng văn và hậu quả tạo nên “ tình trạng kém hứng thú học văn” của học sinh hiện nay đáng để chúng ta suy nghĩ:

“…Trong một sáng tác hình thức và nội dung, cũng ví như da thịt( hình thức) và máu xương (nội dung). Hình thức và nội dung không phải như cái áo cái mũ có thể cởi ra mặc vào thân thể lúc nào cũng được. Sự liên quan giữa nội dung và hình thức một bài văn là sự liên quan của máu thịt với thân thể con người. Không phân tích được như thế, riêng về giảng dạy, không gây được những hiểu biết vô cùng cần thiết về nội dung câu văn, lời văn. Thiếu sót đó cũng một phần nào làm cho đối tượng học sinh ta hiện nay có tình trạng kém hứng thú học văn.”

Ông còn chỉ ra cụ thể: nội dung ( máu xương), hình thức ( da thịt), không thể tách rời. Phân tích hình thức không thể “sơ sài, qua loa, khập khiểng”, phải chú ý đến “vật liệu kiến trúc nội dung ấy”, đó là “nghệ thuật kể chuyện, cấu tạo  nhân vật, đặc biệt là ngôn ngữ”, sau nữa tìm hiểu “ cốt cách văn phong”,  xem tất cả liên quan nội dung, thể hiện nội dung ra sao. Trong phân tích của mình ông cho rằng giờ Văn hoặc đã tách rời hai yếu tố nội dung và hình thức một tác phẩm làm mất vẻ đẹp của văn chương hoặc chỉ dừng lại việc khen chê chung chung ít đi sâu “mổ xẻ cốt cách văn phong”, giờ văn ít thành công là vì vậy!

“… thường người ta nói đến hình thức một sáng tác cũng chỉ qua loa, sơ sài, khập khiểng. Khi phân tích cái hay của nội dung nhất thiết nên chú ý xem xét  đến những vật liệu kiến trúc nội dung ấy như thế nào mà làm cho người đọc cảm nhận được cái hay, cái chưa hay của sáng tác. Đó là nghệ thuật kể chuyện, sự cấu tạo nhân vật và cuối cùng là câu chữ, lối đặt câu phản sánh được nội tâm và biết dùng chữ đắt- mà tất cả, ta gọi là những cái  dựng nên phong cách nhà văn. Thường nhà phê bình chỉ dừng lại ở hai chữ phong cách với mấy từ khen chê chung chung, tuy nói đến hình thức mà chưa mấy ai đi sâu mổ xẻ cốt cách văn phong, tìm xem văn phong ấy đã minh hoạ nội dung thế nào và liên quan ra sao với nội dung.”( bài đã dẫn )

2. Môn Văn với việc giải mã văn bản nghệ thuât, khám phá ý nghĩa cuộc sống .Đây là hai vấn đề liên quan nhưng có nhiều cách lý giải khác nhau về giờ văn trong nhà trường phổ thông. Chúng ta đều biết tiếp cận tác phẩm văn chương ở ngoài đời cũng như trong nhà trường là nhằm khám phá ý nghĩa cuộc sống đằng sau các hình tượng nghệ thuật.Và muốn khám phá được tốt ý nghĩa đó thì phải biết cách giải mã các hình tượng nghệ thuật nhiều khi khá“bí ẩn”. Đây là mối liên quan giữa hai phạm trù cái và cách mà ta thường gặp trong nhiều hiện tượng đời sống chứ không riêng gì nghệ thuật, văn chương. Hai phạm trù này có liên quan mật thiết nhưng lại không đồng nhất, nên xem là hai phương diện độc lập. Việc đọc văn ngoài đời và việc học văn trong nhà trường  có cái giống và cái khác nhau. Giống là ở chỗ đều nhằm khám phá ý nghĩa cuộc sống rút ra những bài học bổ ích, nhưng khác ở chỗ, một đằng con người đủ trí khôn để tự tìm ra ý nghĩa, một đằng còn phải được hướng dẫn, trợ giúp để tìm ra kho châu báu đó. Trong giờ văn giúp HS giải mã ý nghĩa tác phẩm thầy giáo có thể trực tiếp gợi ý, nêu vấn đề đối thoại dắt dẫn cho HS tự tiếp cận tìm ra ý nghĩa, nhưng đôi khi với vốn sống của các em thì những câu trả lời  thường vụn vặt hời hợt , mà hình tượng bài văn thì sâu kín, ngay đến  thầy giáo còn có khi bóp đầu bóp trán vẫn chưa thấy được hết ý nghĩa. Không nên xem những  học sinh chập chững trước cuộc đời cũng có tư thế như những  độc giả tràn trề kinh nghiệm sống, tự mình chiêm nghiệm được các bí ẩn của hình tượng văn chương! Bởi vậy những lúc ấy  người thầy không chỉ gợi ý mà còn phải truyền thụ( diễn giảng ) cho học sinh lĩnh hội các ý nghĩa sâu kín của tác phẩm. Cần hiểu rằng  khi thầy giảng bình những đoạn văn giàu suy cảm, trò chỉ ngồi nghe, xúc động, ghi vài ý chính  nhưng các liên tưởng, so sánh, những độc thoại nội tâm luôn nảy sinh, trí óc nó làm việc nhiều lắm, động não lắm, “ngộ” ra nhiều điều thú vị,  đã phát huy trí lực gấp nhiều lần cái lối dong tay phát biểu ồ ạt mà ta thường gặp. Chính những lúc đó người thầy gián tiếp  giúp  các em biết cách thức tìm tòi, biết phương pháp để đi đến hiệu quả,“biết cách giãi mã  hình tượng nghệ thuật” chứ không phải chỉ những lúc thầy trực tiếp gợi ý, nêu câu hỏi đàm thoại mới thực hiện phương pháp tiếp cận tác phẩm. Giờ Văn trong nhà trường như vậy có “mục tiêu kép”, khác lối đọc văn thông thường, nó giúp học sinh vừa tìm ra cái ý nghĩa cuộc sống đằng sau các con chữ, vừa biết cách thức  tìm ra ý nghĩa đó. Giờ Văn truyền thống thiên về một phía, giờ Văn hiện đại kết hợp cả hai, tuy vậy  không nên để đề cao cái mới mà phủ nhận toàn bộ cái cũ, khiên cưỡng biến phương pháp thành mục đích. Nói về mối quan hệ thầy giáo và học sinh trong giờ văn, xin được nhắc lại một ý kiến rất đáng để cho chúng ta suy nghĩ, ý kiến của nhà văn Ma Văn Kháng – một người rất  am hiểu về giáo dục:

“ Lâu nay khi nói về đào tạo nhân tài, theo như tôi hiểu các nhà giáo dục cách tân thường nhấn mạnh quá đáng đến việc phải phát huy tích cực tính của học sinh. Tôi nghi ngờ điều này. Trước  sau tôi vẫn đinh ninh: tất cả từ ông thầy[…] tình yêu văn chương và năng lực cảm thụ nó, sáng tạo nó là cả một quá trình hình thành và được thầy vun xới .”

Nhiều giáo viên văn không thấu triệt được cái bề sâu của phuơng pháp mới với  yêu cầu “học sinh là trung tâm”là nhằm giúp học sinh lĩnh hội sâu sắc tác phẩm, khám phá ra bản thân, mà chỉ dừng laị ở cấp  độ xem phuơng pháp như là mục đích tự thân. Người thầy trong những giờ học đó theo cách nói của Tzvetan Todorov“chỉ là các chú lùn ngồi trên vai gã khổng lồ”. Vấn đề không là ở chỗ bao nhiêu em tham gia phát biểu, bao nhiêu thời gian học sinh xử dụng trong giờ Văn, mà cái cốt lõi là ở chỗ học sinh đã  tiếp cận  tác phẩm, chiếm lĩnh được bao nhiêu nội dung ý nghĩa. Với bao nhiêu cách tân của phương pháp người giáo viên có năng lực đem xử dụng cũng chỉ nhằm giúp học sinh tiếp cận tác phẩm thích hợp “tầm đón nhận” của lứa tuối, phát hiện ra mình trong những khả năng tiềm ẩn. Đó là tất cả ý nghĩa của mô thức Dạy- Học văn mà chúng tôi quan niệm và được sáng tỏ hơn khi tiếp cận ý kiến nhà văn Ma Văn Kháng.

3- Việc tuyển chọn các tác phẩm văn học vào Sách Giaó Khoa:

Nhà văn Tạ Duy Anh trong một lần trò chuyện trên báo Thể thao Văn hoá có cho rằng

“… Sách Giáo Khoa hiện nay đã khắc phục được một vài nhược điểm, đang có xu hướng cho trẻ con tiếp cận với những giá trị mang tính nhân bản hơn và đã tiến gần hơn tới cái bản chất giáo dục- giáo dục về lòng thiện cho con người- đặt cơ sở để từ đó làm nảy sinh những tình cảm tốt đẹp hơn.” Tuy nhiên  nhà văn cũng lưu ý cần chọn tốt hơn nữa những tác phẩm “đi đúng vào nhịp tâm hồn, tình cảm và khao khát của tâm hòn trẻ thơ”- đặc biệt ở bậc tiểu học, cần bớt đi các bài văn “khô cứng,áp đặt”, nặng tính chất xã hội giáo huấn. Ngoài việc chọn tác phẩm thích hợp lứa tuổi, cần chọn các “tác phẩm hay”.

“…Văn chương không thiếu tác phẩm hay để đưa vào SGK. Bao giờ dám đưa những tác phẩm, chẳng hạn một số truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, tác phẩm của Bảo Ninh hoặc như “Bước qua lời nguyền”(Tạ Duy Anh)… vào SGK dạy một cách đàng hoàng. […] đúng là có những tác phẩm rất hay, đáng in vào SGK đã, đang bị bỏ quên”.

Chọn như thế nào còn chờ tham bác ý kiến các nhà lý luận, các thầy giáo, các nhà soạn sách, nhưng căn bản ý kiến của ông có những nhân tố hợp lý vì HS cuối cấp rất nhiều em sẽ bước vào đời hoặc học sang các ngành khoa học tự nhiên khác mà không biết đến các tác phẩm nổi tiếng thì cũng thiệt thòi cho các em.

Trong cuộc hội thảo về sách tháng 03-2008 tại thành phố HCM, nhà văn Dạ Ngân có đưa một nhận xét  đáng để chúng ta lưu ý, bà cho rằng tác phẩm chọn dạy trong nhà trường yếu về tính thẩm mỹ làm học sinh  không thích học văn,  cảm xúc này kéo dài cho đến sau này khi ra khỏi trường, sở thích đọc sách không có! Đối tượng tiếp cận đã không làm các em thích thú, việc tiếp cận  lại quá chú trọng các thao tác tự tìm kiếm ý nghĩa  đôi khi khô khan, quá sức. Có không ít giờ học văn trôi đi vô cảm như vậy đó, cái thành công chỉ có trong ý tưởng những nhà thiết kế !

Liên hệ chương trình SGK hiện nay với các sách giáo khoa ngày xưa( kiểu Quốc văn giáo khoa thư), tuy có nhiều hạn chế về mặt này mặt khác nhưng sao có nhiều bài học xong nó cứ theo ta mãi suốt cuộc đời. Chưa hẳn là do các thao tác giảng văn mà chính hình tượng văn chương trong các bài được chọn giàu tính thẩm mỹ, thích hợp lứa tuổi nên nó ăn sâu, đậu lâu bền trong tầm hồn trẻ.

Nhà văn Tạ Duy Anh còn cho rằng cách dạy văn của Việt Nam xứng đáng xếp vào nhóm nước “lạc hậu nhất thế giới”, bắt hàng triệu người hiểu như nhau về một tác phẩm. Hãy nghe ông giải thích: “Ngay cả triệu viên gạch cùng được làm ra từ một khuôn cũng khác nhau huống chi một triệu con người… Một đứa trẻ ở nông thôn đọc Chí Phèo chắc chắn sẽ có những cảm nhận khác với một đứa trẻ ở thành phố. Làm sao giống nhau được! Vậy mà một tác phẩm văn chương bắt người ta hiểu giống nhau bằng cách ra những đáp án. Đó là một sự xúc phạm với tác giả nói riêng và sáng tạo nói chung!” 

Hẳn các nhà làm chương trình SGK, các nhà soạn đề thi và các thầy giáo khi kiểm tra học sinh về bộ môn Văn có thể từ ý kiến này rút ra những điều bổ ích, cải tiến công việc.Trong nhà trường không có bộ môn nào tối kỵ lối suy nghĩ và thực hành theo lối “lập trình hoá” như Môn Văn ,vì nó là môn học của trái tim : Văn học là nhân học. Những đáp án chi tiết kiểu toán học quả thật không thích hợp .

Yến Nhi

Nguồn: vanchuongviet.org – Tư liệu văn hóa nghệ thuật

Related posts