Trung Quốc mặt trái tấm huy chương

Vũ Hiến

Không như nhiều quốc gia tự do dân chủ, những quốc gia độc tài, điển hình như Nga và Trung Quốc, rất quan tâm đến Thế vận hội, đầu tư rất nhiều trong cả hai lãnh vực tổ chức và giành huy chương. Những quốc gia độc tài này coi Thế vận hội như là cách để cạnh tranh và chứng tỏ vị thế cường quốc của họ đối với thế giới. Hiểu được điều này ta mới thấy Thế vận hội quan trọng đối với tham vọng quyền lực mềm của Trung Quốc ra sao và sự thèm khát được toả sáng trong ánh hào quang đó.

Ðối với Bắc Kinh, Thế vận hội chính là đấu trường quốc tế để giành chiến thắng bằng bất cứ giá nào. Cứ mỗi hai năm, Thế vận hội mùa Hè hoặc mùa Ðông lại thay phiên nhau chiếm vị trí trung tâm và thu hút sự chú ý của toàn cầu. Tổ chức thành công một Thế vận hội chính là cơ hội để khoe với thế giới về sự phát triển và thành tựu của quốc gia, và qua đó là thuyết phục được người dân trong nước tin tưởng vào năng lực của một chính phủ mà quên đi những hạn chế mà chính phủ đó áp đặt lên cuộc sống của họ.

Nhưng để tổ chức Thế vận hội không thôi vẫn chưa đủ mà còn phải làm sao để đào tạo được một đội ngũ lực sĩ tài năng có thể tranh tài cùng với lực sĩ của những quốc gia khác. Trung Quốc, và kể cả Nga, cho đến nay vẫn coi Thế vận hội giống như quan niệm cũ trước đây của Liên Sô, đó là một phần nối dài của cuộc cạnh tranh địa chính trị; thành công trong đấu trường thể thao thu phục được sự nể trọng từ nhiều quốc gia khác và khơi dậy tinh thần quốc gia dân tộc của người dân trong nước. Và vì vậy họ sẵn sàng chấp nhận bằng mọi giá miễn sao có thể đạt được mục đích.

Hội đồng chỉ đạo thể thao của Trung Quốc được thiết lập để nhắm tới một mục đích duy nhất: giành thật nhiều huy chương vàng để thắp sáng ánh hào quang cho quốc gia. Bạc và đồng hầu như không tính. Với sự tham dự của 413 lực sĩ tại Tokyo năm nay, là phái đoàn thể thao lớn nhất của Trung Quốc từ trước đến nay, tham vọng của Bắc Kinh không gì khác ngoài mục tiêu sẽ là quốc gia dẫn đầu về số huy chương vàng – thậm chí ngay cả khi người dân Trung Quốc ngày càng tỏ ra nghi ngại về sự hy sinh cá nhân quá lớn của nhiều lực sĩ.Xem thêm:   Biến thể Delta

Dựa trên mô hình của Liên Sô, hệ thống đào tạo lực sĩ Trung Quốc bắt đầu lùng kiếm để tuyển lựa hàng nhiều chục nghìn trẻ em từ khi còn rất nhỏ để đưa vào các chương trình đào tạo toàn thời gian tại hơn 2,000 trường huấn luyện thể thao do chính phủ điều hành. Ðể đạt được tối đa số huy chương vàng, Bắc Kinh tập trung vào những môn thể thao ít nổi bật và thiếu sự hỗ trợ tài chánh ở các nước phương Tây hoặc những môn thể thao có tiềm năng mang lại nhiều huy chương vàng cho họ.

Không phải ngẫu nhiên mà gần 75 phần trăm số huy chương vàng Thế vận hội mà Trung Quốc giành được kể từ năm 1984 nằm trong sáu môn thể thao: bóng bàn, bắn súng, nhảy cầu (diving), vũ cầu, thể dục dụng cụ và cử tạ. Hơn hai phần ba số huy chương vàng của Trung Quốc là thuộc về các lực sĩ vô địch nữ và gần 70 phần trăm thành viên trong phái đoàn của họ tại Tokyo cũng là phụ nữ.

Chen Yanqing, huy chương vàng Thế vận hội Athen 2004, được đào tạo từ năm 12 tuổi – nguồn AP

Môn cử tạ nữ, chính thức trở thành một trong những môn thể thao tranh tài tại Thế vận hội Sydney 2000, là mục tiêu lý tưởng trong chiến lược giành huy chương vàng của Bắc Kinh. Ðây là môn thể thao dễ theo đuổi tại hầu hết các cường quốc về thể thao và có thể tự tập ở giai đoạn đầu, điều này có nghĩa là các lực sĩ cử tạ nữ ở phương Tây phải tự mình đi tìm nguồn tài trợ. Và với nhiều hạng cân, môn cử tạ nữ tại Thế vận hội có thể mang lại bốn huy chương vàng.

Ðối với các giới chức lãnh đạo thể thao của Bắc Kinh, môn cử tạ có sức thu hút đại chúng ở Trung Quốc hay không hoặc những cô bé chỉ mới vài tuổi bị đưa vào chương trình đào tạo trong khi chưa hề biết về môn thể thao này là những điều họ không quan tâm. Tại trung tâm huấn luyện quốc gia về cử tạ tại Bắc Kinh, một lá cờ Trung Quốc khổng lồ che hết toàn bộ bức tường, nhắc nhở các lực sĩ cử tạ rằng nghĩa vụ của họ là đối với quốc gia chứ không phải cho bản thân.Xem thêm:   Du lịch Hè 2021

Khi tham gia Thế vận hội, hầu như quốc gia nào cũng muốn toả sáng. Hoa Kỳ và Liên Sô dùng Thế vận hội như một chiến trường để tỉ thí trong thời chiến tranh lạnh. Nhưng nỗi ám ảnh về huy chương vàng của Bắc Kinh đã manh nha từ ngay những ngày đầu thành lập của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào năm 1949, vốn được coi như là lực lượng cách mạng duy nhất có khả năng đảo ngược tình trạng đất nước kéo dài hàng nhiều thế kỷ bị nhấn chìm trong suy tàn và thất bại trước các thế lực ngoại bang.

Mặc dù vậy, trong nhiều thập niên, chính trị đã cản trở tham vọng của họ. Lý do là vì đối thủ Ðài Loan cũng tranh tài tại thế vận hội dưới bảng hiệu Cộng Hoà Trung Hoa, và Bắc Kinh tẩy chay tất cả Thế vận hội Mùa Hè cho mãi tới năm 1984, khi Ðài Loan bị buộc phải đổi thành Trung Hoa Ðài Bắc để được tranh tài tại Thế vận hội.

Năm 1988, Trung Quốc đoạt 5 huy chương vàng. Hai thập niên sau, khi Bắc Kinh tổ chức Thế vận hội, Trung Quốc vượt qua Hoa Kỳ để đứng đầu về số huy chương vàng.

Một trong những bé gái tại một trường đào tạo – nguồn Reuters

Tuy nhiên, tại Thế vận hội London 2012 là một thất bại và Rio 2016 lại còn thất vọng hơn nữa, khi Trung Quốc về hạng ba sau Hoa Kỳ và Vương quốc Anh.

Trở lại quê nhà, các giới chức thể thao đã gia tăng gấp đôi nỗ lực của họ, thậm chí khi ngày càng có nhiều cha mẹ thuộc giới trung lưu không sẵn lòng giao con cái của họ cho nhà nước để đào tạo trở thành lực sĩ thể thao. Trung Quốc nay không còn là một quốc gia nghèo đói tuyệt vọng, nơi mà lời hứa hẹn về những bát cơm đầy ắp khiến các trường huấn luyện thể thao của chính phủ trở nên quyến rũ.

Và cũng ngày càng có nhiều dân chúng hiểu ra rằng cứ mỗi một lực sĩ vô địch Thế vận hội thì lại có hàng chục nghìn những đứa trẻ khác đã bị loại bỏ. Ðối với những lực sĩ lưng chừng nửa vời này, cuộc sống của họ thường gặp nhiều khó khăn: học hành không được đầy đủ, cơ thể bị tàn phá, ít kiếm được việc làm thích hợp bên ngoài lãnh vực thể thao.

Tuy nhiên, Bắc Kinh vẫn tiếp tục với các kế hoạch của họ, thành lập thêm những chương trình đào tạo trong các môn thái cực đạo, chèo thuyền, đua thuyền buồm và nhiều nữa. Những đứa bé nào có thể xếp được đạn trên lòng bàn tay liền được đưa tới học bắn súng. Những bé gái vùng thôn quê có sải tay dài hơn người thường liền được chỉ đạo tới học cử tạ.

Bắc Kinh tập trung vào các môn thể thao có thể được hoàn thiện bằng các động tác lặp đi lặp lại, thay vì là những môn liên quan đến sự hợp tác của nhiều lực sĩ. Ngoài môn bóng chuyền nữ, Trung Quốc chưa bao giờ thắng huy chương vàng Thế vận hội trong bất cứ môn thể thao nào cần một đội nhiều người. Những môn như bóng đá, bóng chuyền và bóng rổ nam của họ không đạt đủ tiêu chuẩn để tham dự Thế vận hội Tokyo.

Phái đoàn lực sĩ Trung Quốc tại Thế vận hội Tokyo với gần 70 phần trăm là phụ nữ_NYTimes.com

Cái giá của sự hy sinh cá nhân của các lực sĩ Thế vận hội tại Trung Quốc rất cao. Việc giảng dạy các môn học khác trong các trường đào tạo thể thao cho đến nay vẫn còn rất thiếu thốn, và một số lực sĩ vô địch thế giới vẫn phải ở chung phòng với những người khác. May mắn lắm thì họ được gặp gia đình một vài lần trong năm.

Vấn đề sử dụng thuốc cấm cũng tràn lan trong các chương trình đào tạo lực sĩ của họ, đặc biệt là môn cử tạ, và Trung Quốc không hẳn là quốc gia duy nhất từng bị bắt quả tang. Nhưng quyết định của một cá nhân sử dụng thuốc cấm khác với trường hợp trẻ em được nhà nước hướng dẫn để làm điều đó.

Năm 2017, sau khi các mẫu nước tiểu cũ được kiểm tra lại, ba trong số bốn huy chương vàng cử tạ nữ của Trung Quốc tại Thế vận hội Bắc Kinh 2008 đã bị thu hồi vì các xét nghiệm phát hiện có chất thuốc cấm.

Trong một trường hợp, một cựu vô địch quốc gia sau khi về hưu nghèo quá đã phải làm công việc dọn dẹp tại một nhà tắm công cộng. Trên mặt cô mọc râu mà cô cho biết là kết quả của một chương trình bí mật ép buộc cô phải sử dụng thuốc cấm khi còn là một lực sĩ trẻ tuổi.

Ðó là một trong những câu chuyện thương tâm đằng sau những tấm huy chương vàng Thế vận hội của Trung Quốc. Dưới mắt nhìn của các nhà lãnh đạo tại Bắc Kinh, họ chỉ là những con cờ thí trên ván cờ tranh giành quyền lực quốc tế.

Related posts