Hoa Long
Nhà dịch tễ học nổi tiếng thế giới, Giáo sư Martin Kulldorff, đến từ trường Đại học Y Harvard cho biết: các biện pháp ứng phó toàn cầu với vi-rút viêm phổi Vũ Hán là một trong những thất bại lớn nhất trong lịch sử y tế cộng đồng.
Với tư cách là một chuyên gia y tế, ông đã giúp Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) Hoa Kỳ phát triển một hệ thống giám sát các nguy cơ tiềm ẩn của vắc-xin. Ông cũng là một trong những tác giả của tuyên bố “Great Barrington”, tuyên bố này chủ trương bảo vệ trọng điểm cho các nhóm người dễ bị tổn thương nhất, thay vì phong tỏa toàn diện cả cộng đồng.
Giáo sư Kulldorff cho biết thất bại lớn nhất trong lịch sử y tế cộng đồng trong một năm rưỡi qua, có thể được phản ánh qua 02 khía cạnh:
- Chính sách cho rằng các biện pháp phong tỏa toàn diện có thể bảo vệ cho toàn dân số. Nhưng thực tế cho thấy, tỷ lệ tử vong do mắc bệnh của những người già nhất so với những người trẻ nhất chênh lệch nhau đến 1.000 lần. Chỉ vì một số người cho rằng biện pháp này có hiệu quả, nên họ đã không áp dụng các biện pháp cần thiết để đặc biệt bảo vệ cho nhóm người cao tuổi có nguy cơ mắc bệnh cao. Điều đáng tiếc là những người cao tuổi này mới là điểm cốt lõi của chính sách y tế công.
- Các biện pháp phong tỏa đã gây ra các tổn thất khổng lồ hữu hình và vô hình. Chẳng hạn như việc trẻ em không được đến trường, ông Kulldorff giải thích rằng: “Trẻ em, tất nhiên, cũng có nguy cơ bị lây nhiễm, nhưng nguy cơ này cực kỳ nhỏ so với người lớn. Hơn nữa, nguy cơ trẻ em nhiễm Covid-19, thậm chí, còn thấp hơn xác suất bị nhiễm cúm hàng năm. Cho đến nay, theo CDC Hoa Kỳ, có khoảng 520 trẻ em ở nước này đã nhiễm Covid-19 và tử vong. Tuy nhiên, hàng năm ở Hoa Kỳ, có khoảng 200 – 1.000 trẻ chết vì bệnh cúm.
Ông Kulldorff cũng đưa ra một ví dụ: kể từ đợt dịch đầu tiên xảy ra vào mùa xuân năm ngoái, Thụy Điển là quốc gia phương Tây duy nhất không đóng cửa tất cả các trường học. Các trường học và nhà trẻ vẫn được mở cửa cho trẻ em trong độ tuổi từ 1 đến 15.
Trong đợt dịch này, 1,8 triệu trẻ em ở Thụy Điển, không có trẻ nào tử vong, những đứa trẻ đó không hề đeo khẩu trang, không giữ khoảng cách xã hội và không trải qua bất kỳ cuộc kiểm tra sàng lọc nào. Nếu trẻ bị bệnh, chúng chỉ được thông báo phải được ở nhà.
Ông Kulldorff cho rằng sức khỏe cộng đồng là một vấn đề lâu dài chứ không phải căn cứ trên số liệu tử vong của một tháng hay một vài tháng.
Ông lấy ví dụ, các ngành học thuật, ngân hàng, luật sư và nhà báo có thể làm việc từ xa tại nhà, các biện pháp phong tỏa bảo vệ cho nhóm người này. Tuy nhiên, đối với các nhân viên siêu thị, công nhân nhà máy sản xuất hoặc các kỹ sư phải làm việc trực tiếp, các biện pháp phong tỏa này đã gây ra gánh nặng đè lên vai tầng lớp trung lưu và những người lao động.
Ông Kulldorff cho rằng những người giàu có thể gửi con cái của họ đến trường tư thục, mời gia sư hoặc chính cha mẹ, một trong hai người, có thể dạy con cái ở nhà mà không cần quá lo lắng về vấn đề tài chính. Tuy nhiên, sự lựa chọn trên, căn bản là điều không thể đối với phần lớn các gia đình không giàu có. Các biện pháp phong tỏa đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến thế hệ sau của tầng lớp lao động.
Ông Kulldorff nói: “Chúng ta nên để con cái của chúng ta được là trẻ con”. Giáo dục là việc rất quan trọng, ông nhấn mạnh việc học từ xa không thể nào sánh được với việc học trực tiếp.
Đối với biến thể Delta, Giáo sư KullDorff nói rằng: “Bất kỳ chủng vi-rút nào cũng có thể đột biến. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi một biến thể mới của vi-rút viêm phổi Vũ Hán xuất hiện”.
Ông nói rằng: “Biến thể Delta có thể dễ lây lan hơn, nhưng nó vẫn không thay đổi luật chơi, bởi tỷ lệ tử vong của biến thể mới đối với người già vẫn khá cao. Chúng chưa trở thành kẻ thù không đội trời chung đối với người trẻ hay trẻ em”.
Ông KullDorff đề cập đến những hiện tượng gần đây như: việc bắt buộc phải có hộ chiếu vắc-xin, giấy thông hành vắc-xin, cũng như các quy định cưỡng chế bắt buộc tiêm vắc-xin trong xã hội. Chẳng hạn như ở Mỹ, Tổng thống Joe Biden đã yêu cầu các công ty phải bắt buộc nhân viên của mình, trong khi các trường đại học thì yêu cầu học sinh, sinh viên phải tiêm chủng.
Ông chỉ ra rằng: “Trong khi những người già mới là những người cần tiêm vắc-xin, thì tại sao những người đã có miễn dịch hoặc những người trẻ tuổi có nguy cơ mắc bệnh thấp, lại bị buộc phải tiêm vắc-xin?”
Giáo sư KullDorff nhấn mạnh rằng: “Sức khỏe cộng đồng phải dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau”. Ông đưa ra ví dụ: Thụy Điển là một trong những nước có tỷ lệ tiêm chủng cao nhất cao nhất thế giới. Niềm tin vào vắc-xin cũng thuộc hàng cao nhất thế giới, nhưng chính quyền Thụy Điển không hề đưa ra bất cứ yêu cầu bắt buộc nào, những người đi tiêm vắc-xin hoàn toàn tự nguyện.
Ông KullDorff lập luận: “Việc sử dụng mọi biện pháp cưỡng chế bắt buộc, ép mọi người đi tiêm, đều có thể phản tác dụng đối với sức khỏe cộng động. Nhiều người cảm thấy nghi ngờ và tránh xa vắc-xin. Bởi vì, họ cảm thấy nếu vắc-xin tốt như vậy, tại sao lại phải ép buộc tiêm chủng? Nếu muốn người dân tin tưởng vào vắc-xin thì việc tiêm chủng phải tự nguyện và không có quy định bắt buộc nào”.
Miễn dịch cộng đồng là khi một loại vắc-xin có thể hoàn toàn ngăn chặn được sự lây nhiễm. Tuy nhiên, các loại vắc-xin hiện nay đều không thể làm được điều đó. Biến thể Delta và thực tế tại Israel đã chứng minh điều này.
Nội dung cuộc phỏng vấn giữa Giáo sư KullDorff với The Epoch Times:
Giáo sư Andrew Pollard là giám đốc của Nhóm nghiên cứu vắc-xin của Đại học Oxford, cũng là một trong những chuyên gia đầu ngành đã tham gia vào việc sáng chế ra vắc-xin AstraZeneca cũng từng nói rằng: “Do biến thể Delta, khả năng miễn dịch cộng đồng là điều không thể xảy ra. Do vậy, việc bắt buộc tiêm vắc-xin nhằm mục đích đạt được miễn dịch cộng đồng là một lập luận hoàn toàn thiếu khoa học và thiếu thuyết phục”.
Hoa Long