Lê Minh
Trong bối cảnh ông Tập Cận Bình thắt chặt quyền kiểm soát đối với nền kinh tế Trung Quốc, đặc biệt là khu vực kinh tế tư nhân, thị trường chứng khoán Trung Quốc là rất rủi ro. Người ta không bao giờ biết được Bắc Kinh sẽ tham gia vào nền kinh tế ở đâu hoặc theo cách nào nhưng sự can thiệp của chính phủ là không thể tránh khỏi và không thể cưỡng lại. Khoản tiền đầu tư từ Mỹ và Phương Tây vào Trung Quốc chưa bao giờ rủi ro đến thế.
Chuyên gia đầu tư Jim Cramer nói rằng chế độ Bắc Kinh là một “quân bài khó đoán”. Ông nói với Squawk Box của CNBC trong một cuộc phỏng vấn hôm 05/01 rằng đầu tư vào Trung Quốc là rủi ro quá lớn với các nhà đầu tư Mỹ.
Ông Cramer nói: “Ông Tập hoàn toàn khinh thường chúng ta, khinh thường các cổ đông và rất khinh thường những người giàu có mà ông ta cho rằng đang đe dọa quyền lực của mình”.
“Vua trái phiếu” và người sáng lập DoubleLine, Jeffrey Gundlach, nói rằng Trung Quốc là nơi “không thể đầu tư” vì ông không tin tưởng vào dữ liệu của ĐCSTQ. Ông nói với Yahoo Finance hôm 05/01 rằng do mối hiềm khích giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, ông lo ngại rằng các tài sản đầu tư của nhà đầu tư Mỹ tại Trung Quốc có thể bị tịch thu.
Hơn nữa, cuộc đàn áp các tập đoàn công nghệ lớn của ĐCSTQ đã khiến các nhà đầu tư trong lĩnh vực đó kinh hoàng. Alibaba mất 45% giá trị trong 12 tháng qua, trong khi Tencent mất 40% giá trị. Ứng dụng gọi xe Trung Quốc Didi đang có kế hoạch hủy niêm yết trên Sàn giao dịch chứng khoán New York do áp lực từ ĐCSTQ. Giờ đây, không còn công ty Trung Quốc nào trong số 10 công ty lớn nhất thế giới.
Ngành công nghiệp gia sư ngoài giờ cũng đã bị xóa sổ bởi các sắc lệnh của ông Tập; sắc lệnh ngăn họ thuê giáo viên ngoại quốc và thu lợi nhuận. Do đó, cổ phiếu của Tập đoàn giáo dục TAL trị giá hàng tỷ USD đã mất 95% giá trị. Hai công ty hàng đầu khác trong ngành gia sư của Trung Quốc – Gaotu và New Oriental – cũng chịu lỗ tương tự. Ba doanh nhân lớn nhất trong lĩnh vực giáo dục của đất nước đã mất tổng cộng 27 tỷ USD tài sản ròng.
Theo quy định mới, lĩnh vực dạy thêm cũng bị cấm phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO). Nhưng ngay cả khi IPO được cho phép, các nhà đầu tư sẽ không bỏ tiền của họ vào các công ty bị chính sách của nhà nước cấm tìm kiếm lợi nhuận.
Diễn biến của thị trường chứng khoán (TTCK) Trung Quốc cho thấy sự mất niềm tin chung vào nền kinh tế. Vào năm 2021, Chỉ số Rồng Vàng, theo dõi các cổ phiếu vốn hóa trung bình và lớn của Trung Quốc, đã giảm mạnh khoảng 49%. Chỉ số Chứng khoán Thượng Hải giảm khoảng 15%, xóa sổ khoảng 600 tỷ USD trong vốn hóa thị trường.
Tại Hoa Kỳ, chứng khoán của các công ty niêm yết Trung Quốc mất giá trị xấp xỉ 1 ngàn tỷ USD do lo ngại bị hủy niêm yết.
Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch Hoa Kỳ (SEC) cho biết vào tháng 07/2021 rằng họ sẽ không xem xét hồ sơ IPO đối với các công ty Trung Quốc không đáp ứng các yêu cầu về tính minh bạch. Do đó, việc niêm yết và IPO của Trung Quốc đang được chuyển sang Hong Kong.
Do sự gia tăng bất ổn ở Trung Quốc, một số nhà quản lý quỹ đang xem xét loại bỏ các khoản đầu tư vào Trung Quốc khỏi danh mục đầu tư vào các thị trường mới nổi của họ.
Bà Regina Chi, Phó chủ tịch và Giám đốc danh mục đầu tư tại AGF Investments, cho biết trong một bài bình luận gần đây rằng Chỉ số MSCI Trung Quốc, theo dõi các cổ phiếu vốn hóa lớn và trung bình, đã giảm 14% trong năm 2021 tính đến ngày 31/10; một xu hướng đi ngược lại với các thị trường mới nổi khác trên toàn thế giới. Ví dụ, MSCI Ấn Độ tăng 25% và MSCI Argentina tăng 34% so với cùng thời kỳ. Bà Chi đổ lỗi cho đường lối cứng rắn của ĐCSTQ trong các vấn đề kinh tế. Bà nói rằng bằng cách bán bớt tài sản tài chính ở Trung Quốc, tiền mặt có thể được tái đầu tư vào các nền kinh tế khác đang hoạt động tốt hơn.
Theo ông Chi Lo, chiến lược gia thị trường cấp cao tại BNP Paribas, các biện pháp kiểm soát kinh tế thắt chặt vào năm ngoái đã thúc đẩy các vụ vỡ nợ gia tăng và làm giảm trầm trọng niềm tin của nhà đầu tư. Ông dự đoán rằng việc duy trì tăng trưởng kinh tế sẽ là ưu tiên của ĐCSTQ trong năm nay. Số tiền thu được từ hạn ngạch trái phiếu chính quyền địa phương của năm ngoái sẽ được sử dụng để mở rộng nền kinh tế. Điều đó có nghĩa là giảm nợ, ổn định nền kinh tế và các mục tiêu ô nhiễm đều không phải là ưu tiên của chế độ Bắc Kinh.
Năm ngoái, các hạn chế COVID-19 ở các quốc gia trên khắp toàn cầu đã gây khó khăn cho việc sản xuất các sản phẩm nội địa, điều này đã làm tăng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc. Năm nay, tình hình đã đảo ngược. Khi các quốc gia khác cho phép các nhà máy của họ hoạt động trở lại, nhu cầu đối với các sản phẩm của Trung Quốc sẽ giảm xuống.
Trong khi đó, chính sách nghiêm ngặt “không COVID” của ĐCSTQ đang cản trở lĩnh vực sản xuất của Trung Quốc. Sự gián đoạn liên tục và việc đóng cửa nhà máy và vận chuyển lặp đi lặp lại sẽ ảnh hưởng đến GDP của Trung Quốc. Khi người tiêu dùng ở các quốc gia khác phàn nàn về sự gián đoạn chuỗi cung ứng và tình trạng thiếu hàng hóa, các nhà sản xuất địa phương sẽ bắt đầu giải quyết vấn đề này.
Nhiều tổ chức tài chính hàng đầu thế giới dự đoán tăng trưởng GDP yếu ở Trung Quốc. BNP Paribas và DWS cho rằng Trung Quốc đang phải vật lộn để đạt mức tăng trưởng 5,3% vào năm 2022. HSBC dự đoán mức tăng trưởng của Trung Quốc sẽ ở mức 5% hoặc thấp hơn. Bank of America đang kỳ vọng Trung Quốc sẽ là một nước ngoại lệ, với tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với các nước khác. Dự báo của Credit Suisse là suy thoái kinh tế ở Trung Quốc. Và HSBC Asset Management cho rằng thế giới có thể trải qua một cú sốc tiêu cực do COVID-19 hồi sinh hoặc việc hạ cánh khó khăn ở Trung Quốc. Và việc hạ cánh khó khăn của Trung Quốc có thể đến từ chính sách phong tỏa COVID của họ.
Chính sách “Không có COVID” chỉ là một ví dụ nữa về sự kiểm soát hà khắc của ĐCSTQ đối với nền kinh tế. Một chính sách có thể buộc các công ty Trung Quốc hủy giao dịch với nước ngoài. Một ý tưởng bất chợt của chính phủ có thể tiêu diệt toàn bộ một ngành công nghiệp, như ngành dạy thêm hoặc các gã khổng lồ công nghệ. Chính sách khăng khăng “không có COVID” của Bắc Kinh có thể buộc các nhà máy và cảng biển phải đóng cửa. Tất cả đều thúc đẩy sự dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu khỏi Trung Quốc.
Nói tóm lại, sự biến động của chứng khoán Trung Quốc, cũng như sự thăng trầm của nền kinh tế nói chung, không được dự đoán dựa trên các lực lượng thị trường tự do mà dựa trên thái độ của ĐCSTQ. Điều này cho thấy rằng Trung Quốc không phải là một nền kinh tế thị trường. Ngoài ra, những rủi ro khi đầu tư vào Trung Quốc không thể dự đoán và cũng không thể tính toán được vì chúng được dự đoán dựa trên các quyết định của ĐCSTQ.
Tác giả Antonio Graceffo đã có hơn 20 năm làm việc tại châu Á. Ông tốt nghiệp Đại học Thể thao Thượng Hải và có bằng MBA của Đại học Giao thông Thượng Hải; và hiện là Giáo sư và nhà phân tích kinh tế Trung Quốc. Ông viết bài cho nhiều phương tiện truyền thông quốc tế. Một số cuốn sách về Trung Quốc của ông gồm: Beyond the Belt and Road: China’s Global Economic Expansion (Đằng sau Vành đai và Con đường: Sự mở rộng kinh tế toàn cầu của Trung Quốc); và A Short Course on the Chinese Economy (Khóa học ngắn hạn về kinh tế Trung Quốc).
Lê Minh
Theo The Epoch Times