Gia Huy
Theo một chuyên gia, chính quyền Trung Quốc đang mở rộng bất hợp pháp lãnh thổ của mình trên Biển Đông và cố tình thay đổi cách diễn giải về lịch sử để duy trì các vùng lãnh thổ có được một cách bất chính.
Hình ảnh các tàu Trung Quốc neo đậu ở một khu vực thuộc Biển Đông ngày 7/3/2021. (Ảnh: Phillipines Coast Guard/National Task Force)
Ông Gregory Poling, giảng viên cấp cao của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS), một tổ chức tư vấn đặt tại Washington, lên án: “Đối với chính quyền Trung Quốc, lịch sử chỉ là nhựa và có thể được thay đổi và nhào nặn khi cần thiết.”
Ông Poling nhận định, giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) hiện tại tin rằng Hoa Kỳ đang ở tình trạng “thoái trào giai đoạn cuối”, do đó quốc gia cộng sản này đã sẵn sàng tham gia vào các cuộc xung đột nhiều hơn kể từ khi ông Tập Cận Bình lên làm lãnh đạo ĐCSTQ vào năm 2012.
Hôm 5/7, trong buổi thảo luận về cuốn sách mới nhất của mình “Trên vùng đất nguy hiểm: Thế kỷ của Mỹ ở Biển Đông,” ông Poling lưu ý: “Trung Quốc [dưới thời ông Tập] đã thể hiện quyết tâm cao hơn trong việc đạt được [mục tiêu] bằng cưỡng bức thay vì bằng các công cụ ngoại giao.”
Ông tiết lộ, cuốn sách mới của ông tập trung xem xét mối tương quan giữa cam kết của Mỹ đối với tự do trên biển và mạng lưới liên minh đang phát triển của nước này trên khắp Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Tranh chấp lãnh thổ
Ông Poling cho rằng, việc hiểu lịch sử của các yêu sách chủ quyền khác nhau ở Biển Đông và vai trò của Hoa Kỳ trong các yêu sách đó, là rất quan trọng để hiểu được tình huống hiện tại ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Ông tiếp tục: “Lịch sử về Biển Đông mà chúng ta có đã bị bóp méo. Các tranh chấp lãnh thổ tại thời điểm này đã [kéo dài] hơn một thế kỷ và điều thường bị bỏ sót trong lịch sử này như chúng ta thường kể là Hoa Kỳ đã ở đó trong suốt thời gian này.”
Ông Poling giải thích, vai trò của Hoa Kỳ trong việc định hình khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương là lâu đời hơn vai trò của ĐCSTQ, và động lực của Hoa Kỳ bắt nguồn từ vị thế của mình trong khu vực như một “cường quốc thường trú” do việc Hoa Kỳ nắm giữ thuộc địa ở Philippines trong những năm đầu thế kỷ 20.
Ông nhận xét: “Về cốt lõi, các mối quan tâm của Hoa Kỳ vẫn duy trì khá ổn định.”
Theo ông, việc duy trì các cam kết liên minh và bảo vệ luật hàng hải quốc tế để đảm bảo quyền tiếp cận các tuyến đường biển cho cộng đồng quốc tế cũng nằm trong các mối quan tâm đó của Hoa Kỳ.
Tuy nhiên ông Poling chỉ ra, không giống như Hoa Kỳ, các yêu sách chủ quyền của ĐCSTQ phần lớn được tạo ra dựa trên căn cứ nào. Giới lãnh đạo ĐCSTQ đã vẽ ra một phần Biển Đông trên bản đồ và tuyên bố chủ quyền mọi thứ bên trong một cách tùy tiện, mặc dù quốc gia cộng sản này không có sự hiện diện nào trên bất kỳ hòn đảo nào trong khu vực này vào thời điểm đó.
Ông tiếp tục: “Không có quan chức Trung Quốc nào đã từng đặt chân lên [các quần đảo]. Họ không biết những gì họ đang yêu sách chủ quyền. Họ chỉ vẽ ra một đường xung quanh nó và tuyên bố rằng bất kỳ bãi đá hoặc đảo nào mà người ta có thể tìm thấy tại bất kỳ đâu trong đường này đều thuộc về Trung Quốc. Và đó là cơ sở cho các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc từ những năm 1930 cho đến ít nhất đầu những năm 1990.”
Tuy nhiên, điều đó đã thay đổi vào năm 1988, khi chính quyền Trung Quốc tấn công Việt Nam, trước việc Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với một bãi đá ngầm ở Quần đảo Trường Sa. Sau sự kiện này, Bắc Kinh đã mở rộng yêu sách của mình để bao gồm tất cả vùng biển và vùng trời trên khắp Biển Đông, khăng khăng yêu sách của mình là “quyền lịch sử”.
Sự xâm lược của ĐCSTQ
Kể từ đó, chính quyền cộng sản Trung Quốc đã tạo ra nhiều hòn đảo nhân tạo trên khắp vùng biển này, mà họ sử dụng để đặt các thiết bị quân sự và thổi phồng các yêu sách của họ. Điều này đã đảm bảo cho ĐCSTQ tiếp cận các mỏ khí đốt tự nhiên và các vùng đánh bắt hải sản phong phú trong khu vực này, đồng thời ngăn chặn cộng đồng quốc tế tiếp cận các nguồn tài nguyên đó.
Ông Poling chỉ trích: “Tất cả điều này rõ ràng là bất hợp pháp, trái với Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, mà Trung Quốc đã giúp đàm phán.”
“Giờ đây, đột nhiên, Trung Quốc đưa ra những yêu sách này xâm phạm trực tiếp đến quyền của tàu Mỹ, máy bay Mỹ, công dân Mỹ và đang đe dọa phá hoại toàn bộ chế độ luật hàng hải quốc tế mà Hoa Kỳ rất coi trọng.”
Ông Poling nhìn nhận, giờ đây Hoa Kỳ đã mất tất cả [Biển Đông] ngoại trừ khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và sẽ cần phải tạo ra sức ép kinh tế và ngoại giao mạnh mẽ lên Bắc Kinh để mở cửa trở lại toàn bộ Biển Đông.
Ông cảnh báo, với mỗi hòn đảo mới và việc bố trí quân sự, ĐCSTQ đang “thắt chặt thòng lọng” đối với khu vực này và đe dọa biến Biển Đông thành “cái hồ của Trung Quốc”.
Ông Poling kết luận: “Trung Quốc thể hiện sự lấn át đáng kể đối với Hoa Kỳ tại địa phương [Biển Đông]. Họ thống trị bầu trời, biển cả, phổ điện từ. Thật nguy hiểm, chúng ta đang tiến gần đến mức tự do hàng hải sẽ không còn tồn tại ở Biển Đông.”
Gia Huy (Theo The Epoch Times)