Marburg là vi khuẩn bắt nguồn từ dơi ăn quả ở châu Phi, lây lan từ người sang người qua dịch thể hô hấp, gây bệnh xuất huyết “giống ma” với tỷ lệ tử vong gần 90%.
Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) xác định hai ca tử vong do virus Marburg tại Ghana ngày 18/7. Có nguồn gốc từ dơi ăn quả, Marburg đôi khi gây ra các đợt bùng phát sốt xuất huyết nhỏ, số ca nhiễm lẻ tẻ chủ yếu ở Trung và Nam Phi. Tuy nhiên, các ca tử vong mới nhất một lần nữa cho thấy mầm bệnh có thể vượt qua ranh giới về loài và lây nhiễm sang người, có nguy cơ gây ra dịch bệnh nguy hiểm.
Vi khuẩn Marburg là gì?
Marburg là một virus họ Filoviridae (cùng họ với Ebola), độc nhất về mặt di truyền, có thể gây bệnh xuất huyết nghiêm trọng ở người, tỷ lệ tử vong dao động từ 24% đến 88%, tùy thuộc vào chủng virus và chất lượng điều trị tại cơ sở y tế.
Bệnh do vi khuẩn Marburg được công nhận vào năm 1967, khi các đợt bùng phát xảy ra đồng thời tại các phòng thí nghiệm ở Marburg, Frankfurt của Đức và thủ đô Belgrade của Serbia.
Các ca nhiễm bắt nguồn từ những con khỉ Grivet được nhập khẩu từ Uganda để nghiên cứu và sản xuất vaccine bại liệt. Sau đó, các đợt bùng phát lẻ tẻ được báo cáo tại Angola, Cộng hòa Dân chủ Congo, Kenya, Nam Phi và Uganda.
Năm 2008, ca nhiễm độc lập đầu tiên được ghi nhận ở các du khách đến thăm hang động có bầy dơi Rousettus ở Uganda.
Marburg có thể đã truyền từ dơi ăn quả châu Phi sang những người làm việc lâu dài trong các hầm mỏ, hang động. Đây không phải mầm bệnh lây lan qua không khí. Virus lây nhiễm giữa người với người thông qua dịch thể như máu, nước bọt hoặc nước tiểu.
Các triệu chứng nhiễm vi khuẩn Marburg
Sau thời gian ủ bệnh từ hai đến 21 ngày, người nhiễm virus bắt đầu có triệu chứng sốt cao, đau đầu dữ dội, khó chịu, đi kèm với đau nhức cơ. Đến ngày thứ ba, họ bị tiêu chảy ra nước, đau bụng và chuột rút, buồn nôn, nôn mửa. Tình trạng tiêu chảy kéo dài khoảng một tuần.
Trong giai đoạn này, nhiều bác sĩ mô tả bệnh nhân có vẻ ngoài thiếu sức sống, “giống ma” với đôi mắt trũng sâu, khuôn mặt vô cảm và cực kỳ thờ ơ.
Trong đợt bùng phát được ghi nhận vào năm 1967, đa phần bệnh nhân nổi phát ban nhưng không ngứa từ hai đến 7 ngày sau các triệu chứng đầu tiên. Nhiều bệnh nhân bị chảy máu nghiêm trọng hoặc xuất huyết vào ngày thứ 7. Máu tươi xuất hiện trong chất nôn và phân, thường đi kèm với triệu chứng chảy máu mũi, lợi và âm đạo. Chảy máu tự phát tại các vị trí có đường tĩnh mạch để truyền dịch hoặc lấy mẫu máu.
Trong giai đoạn chuyển nặng, người bệnh sốt cao liên tục, có thể nhầm lẫn, cáu kỉnh và hung hăng. Nam giới đôi khi bị viêm hai tinh hoàn vào tuần thứ ba.
Bệnh nhân thường tử vong từ 8 đến 9 ngày sau khi khởi phát triệu chứng, sau khi mất máu nghiêm trọng và sốc.
Cách chẩn đoán
Nếu không thực hiện xét nghiệm, rất khó để phân biệt Marburg với bệnh sốt rét, sốt thương hàn, viêm màng não, Ebola và các dạng xuất huyết do virus khác.
Người có nguy cơ cao
Người có nguy cơ nhiễm bệnh cao nhất thường là thành viên trong gia đình, bạn bè đã tiếp xúc gần bệnh nhân, nhân viên y tế, người chăm sóc các ca dương tính virus mà không sử dụng thiết bị bảo hộ cá nhân.
Bác sĩ thú y, nhân viên phòng thí nghiệm cơ sở kiểm dịch xử lý các loài linh trưởng từ châu Phi cũng có khả năng phơi nhiễm.
Marburg lây lan qua thi thể bệnh nhân. Vì vậy, người thực hiện chôn cất, tiếp xúc trực tiếp với người bệnh đã khuất cũng dễ nhiễm virus.
Phương pháp điều trị và vaccine
Theo WHO, hiện chưa có vaccine hoặc phương pháp điều trị hiệu quả, được phê duyệt cho bệnh từ virus Marburg. Các chuyên gia đang thử nghiệm liệu pháp miễn dịch, kháng thể đơn dòng và kháng virus.
Đối với người phải nhập viện, bác sĩ thường chăm sóc hỗ trợ, đặc biệt là bù nước đường uống hoặc truyền tĩnh mạch, điều trị theo triệu chứng cụ thể để cải thiện cơ hội sống sót.
Cơ quan Nghiên cứu và Phát triển Nâng cao Y sinh của chính phủ Mỹ đã cấp thêm kinh phí cho Viện Vaccine Sabin để thử nghiệm lâm sàng vaccine vào tháng 10.
Thục Linh (Theo Washington Post)