Nguyên Vũ
Trời nóng hầm hập
Đất khô nứt nẻ
Người như kiến bò chảo nóng
Bê-tông nổ toang dưới nắng
Đá cuội khô lăn lóc đáy sông
Một dải sơn lâm cháy rừng rực
Trăm họ oán than cao chất ngất
…
Có phải khung cảnh Xích Bích sau trận đại chiến Ngụy – Thục – Ngô?
Hay là thầy trò Đường Tam Tạng đã đi đến núi Hỏa Diệm?
Đều không phải.
Chính là tình cảnh khô hạn của Trung Quốc đại lục lúc này, vùng đất mà mới một năm về trước còn chấp chới trong sóng dữ hồng thủy. Thủy-hỏa-đạo tặc vốn là những tai ương thảm khốc nhất, nên cũng thường đi vào tác phẩm văn nghệ để truyền tải thông điệp mạnh mẽ của nó.
Chẳng hạn như ở hồi thứ 59-60 Tây Du Ký, thầy trò Đường Tăng muốn sang Tây lấy kinh nhưng gặp núi lửa Hỏa Diệm Sơn nghẽn lối, mấy ai ngờ đó lại là “tác phẩm” bất đắc dĩ của Tôn Ngộ Không từ thời còn là yêu hầu đại náo thiên cung, vì đạp đổ Lò Bát Quái, tàn lửa rơi xuống trần, trở thành Hỏa Diệm Sơn nóng như thiêu, gây khó khăn cho đoàn lấy kinh sau này. Xem thế thì ra sự đời có vay ắt có trả.
Nhưng đây không còn là tác phẩm văn nghệ, chính thực tế lịch sử đã dạy đi dạy lại cho con người bài học Nhân Quả. Chúng ta quay trở lại vùng phía tây của Trung Quốc, gần hai nghìn năm trước đã từng có một nơi gọi là thành cổ Lâu Lan.
Thành cổ Lâu Lan vùi trong cát vàng sa mạc
Tháng 3 năm 1901, một đoàn thám hiểm người Âu tiến vào sa mạc La Bố Bạc (Lop Nur) – một vùng hồ muối khô cằn nằm giữa sa mạc Taklamakan và sa mạc Kuruktag (1) – nơi được mệnh danh là “có đi – không về”. Họ cứ men theo phía tả ngạn khô cạn của một con sông có tên Khổng Tước, rồi tiến nhập vào một tòa thành cổ đổ nát, gần như đã bị chôn vùi trong cát. Bên trong những bức tường thành dài, rải rác đây đó những xà gỗ chạm khắc hoa văn nửa nổi nửa chìm trong biển cát. Nơi đây giờ chỉ còn cát bay, gió thổi trong thinh lặng mênh mông. Đoàn thám hiểm đứng đầu là Sven Hedin người Thụy Điển đứng giữa một khu phế tích hoang lương mà trước kia có lẽ đã từng là một đô thị trù phú, sầm uất. Ngay lập tức, họ bắt tay vào việc.
Sau một tuần khai quật, họ đã tìm thấy nhiều di chỉ quan trọng, trong số đó là một bức tượng Phật cao 1,15 mét, 36 tờ giấy có chữ Hán và 120 thẻ tre, ngoài ra còn có vải lụa, vải len, mảnh đồ gốm, hoa tai v.v. và các phế vật của người và động vật đã từng sống tại nơi này. Nghiên cứu của Hedin cuối cùng đã phát hiện rằng thành cổ này là thủ phủ của Lâu Lan. Đó là một quốc gia cổ nằm trên con đường tơ lụa tồn tại từ thế kỷ II TCN ở vùng đông bắc sa mạc La Bố, Tân Cương ngày nay.
Các ghi chép văn thư mà Hedin tìm thấy có niên đại sớm nhất là vào năm 252 sau Công nguyên. Trên các thẻ tre là thư từ giao dịch của quan quân nhà Tấn. Trong các văn vật còn có gấm thời Hán tinh tế, diễm lệ; có bản thảo “Chiến Quốc Sách” của thời Tấn; lại có cả giấy thời Tấn xuất hiện sớm hơn giấy Châu Âu 700 năm.
Lý do gì khiến Lâu Lan thành phế tích?
Lâu Lan nằm trên con đường tơ lụa, Đông qua Tây lại, buôn bán tấp nập, quốc thổ phồn vinh, dân cư sung túc. “Sử ký” của Tư Mã Thiên có ghi chép về Lâu Lan như sau: “Lâu Lan, tức là Cô Sư, trong ấp có thành quách, đầm muối”. Lâu Lan có “nhiều ngọc quý, lau sậy rậm rạp, những hàng dương liễu, hồ dương xanh tươi. Người dân chăn thả đàn gia súc trên đồng cỏ bên dòng nước, gia súc có lừa, ngựa và lạc đà”. “Sử ký” cũng ghi nhận rằng, Lâu Lan có hơn 14 ngàn cư dân và gần 3 ngàn binh sĩ vào thời Tây Hán.
Nhưng kể từ sau thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều (thế kỷ thứ 4) thì không còn thấy bất cứ ghi chép nào về Lâu Lan nữa, để lại cho hậu thế bao ẩn đố lịch sử. Ẩn đố lớn nhất chính là nguyên nhân gì mà thành cổ Lâu Lan trù phú đã biến mất một cách bí ẩn chỉ sau một đêm. Có mấy giả thuyết như sau. Thành cổ Lâu Lan trù phú đã biến mất một cách bí ẩn chỉ sau một đêm. (Ảnh: Bí ẩn chưa có lời giải đáp)
Giả thuyết thứ nhất là sự hủy hoại môi trường sinh thái. Khi Lâu Lan còn phồn thịnh, những rặng cây lớn đã bị đốn hạ để làm “mộ táng mặt trời”. Có 7 vòng tròn gỗ bao quanh mộ huyệt, mỗi vòng tròn gỗ sau cao hơn vòng tròn gỗ trước 0,3m, quần thể trông từa tựa mặt trời đang chiếu sáng đại địa, nên gọi là mộ táng mặt trời. Do người Lâu Lan chặt phá rừng ồ ạt, lại thêm việc sông Tarim, Lop Nur chuyển dòng, Lâu Lan khô hạn cạn kiệt và chìm trong cát sa mạc.
Một thuyết khác cho rằng Lâu Lan bị kẹp giữa những thế lực quân sự hùng mạnh và bị tàn phá do cuộc chiến của những thế lực này.
Nhiều người khác lại ủng hộ giả thuyết về bệnh dịch. Người ta cho rằng đã có một đợt dịch bùng phát khủng khiếp ở Lâu Lan, khiến người chết người bỏ đi, cuối cùng Lâu Lan trở nên hoang phế.
Những người có tín ngưỡng lại tìm đến những nguyên nhân sâu xa hơn. Thậm chí một số người tu luyện nhờ có công năng “túc mệnh thông” có thể nhìn về quá khứ, đã nói rằng Lâu Lan ở thời kỳ cuối đã trở nên rất sa đọa về đạo đức. Từ quốc vương đến người dân đều khinh thường Thần Phật, hoang dâm phóng đãng, xa hoa hủ bại, đạo đức trượt dốc không phanh. Văn hóa Thần truyền có thuyết “Thiên nhân hợp nhất”, cho rằng có một sự tương ứng giữa đạo đức của xã hội con người với tình trạng của môi trường thiên nhiên. Khi đạo đức của con người mất đi, thì môi trường sống cũng trở nên khắc nghiệt. Lâu Lan đã thực sự giống như thành cổ Pompeii thời kỳ cuối. Có lẽ vì vậy mà nó còn có tên là “thành Pompeii trong cát” (2) chăng?
Ngẫm về Lâu Lan một thuở, lại nhớ đến Trung Quốc ngày nay.
Một Trung Quốc khô héo trong đại hạn hán
Nắng nóng khủng khiếp liên tục trong nhiều ngày đã khiến cho con sông lớn nhất nhì Trung Quốc là Trường Giang cũng cạn dòng, thượng nguồn đập Tam Hiệp – đoạn qua tỉnh Tứ Xuyên trơ đáy. Còn đâu cảnh tượng hùng vĩ suốt mấy nghìn năm :
“Trường Giang cuồn cuộn chảy về đông
Bạc đầu ngọn sóng cuốn anh hùng
Thị phi thành bại theo dòng nước
Sừng sững cơ đồ bỗng tay không…” (3) Sông Trường Giang đã khô cạn (Ảnh chụp video)
Trường Giang chẳng nổi sóng cồn vẫn có thể cuốn đi cơ đồ của không ít hào kiệt bốn phương. Tesla, SAIC Motor đang phải chật vật cạnh tranh nguồn điện sinh hoạt eo hẹp với người dân Thành Đô – Tứ Xuyên, vốn phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước Trường Giang cung cấp cho thủy điện Tam Hiệp. Toyota, Foxconn, Compal, Wistron v.v. đều bị ảnh hưởng nặng do thiếu điện.
Hạn nặng, nhiệt độ cao cũng khiến rừng ở Tứ Xuyên bốc cháy, cả một dải núi rừng rậm rạp của đất Thục cổ xưa đỏ lửa trong đêm như một phiên bản của trận Xích Bích thời hiện đại, gợi nhớ đến hình ảnh:
“Một đêm gió lạnh lùng,
Muôn dặm mây đỏ ối.
Bời bời hoa tuyết bay,
Nước non hình sắc đổi…” (4)
Hồ Bà Dương là hồ nước ngọt lớn nhất Trung Quốc, thuộc tỉnh Giang Tây và có thông với sông Trường Giang. Năm xưa tại nơi này, chính là nhờ có trận gió phù hộ của Hoàng Thiên mà Chu Nguyên Chương giành được thắng lợi quyết định trong trận đại thủy chiến với Trần Hữu Lượng, sau đó dựng lập nên Minh triều. Hiện nay đại bộ phận hồ đã khô cạn, tôm cá phơi mình, luồng lạch khô cạn như con rồng lộ thiên. Hồ Bà Dương phơi đáy. (Ảnh chụp video)
Còn ở Lạc Sơn Đại Phật nổi tiếng ở núi Lăng Vân – Tứ Xuyên, vào hai năm trước, nước lũ đã mấp mé ngón chân tượng Đức Phật, năm nay mực nước cách ngón chân Phật đến 10m.
Thác nước núi Lư (Lư Sơn) nằm giữa sông Trường Giang và hồ Bà Dương là tiên cảnh nhân gian, hùng vĩ choáng ngợp, bao la vạn tượng đã đi vào kinh điển trong “Vọng Lư Sơn bộc bố” của thi tiên Lý Bạch với hình ảnh:
“Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây” (5)
… Giờ đây co lại như một con lạch, như dòng nước mắt đang khô cạn dần trên đá. Thác nước Lư Sơn xưa và nay. (Ảnh qua Secretchina)
Những danh thắng mang tính biểu tượng văn hóa của Trung Quốc đều không thoát khỏi cơn đại hạn mấy trăm năm mới có một lần.
Ở Tứ Xuyên phơi bày khung cảnh tiêu điều: dưới thấp là vườn quả trơ trụi, gia súc gia cầm chết la liệt, nạn dân thống thiết khóc than; trên không quạ đen lượn từng đàn xao xác đến rợn mình… Trại gà Tứ Xuyên – nắng nóng và mất điện, gà chết. (Chụp video)
Khi tai họa chồng chất tai họa, mấy ai còn đủ tỉnh táo để tự hỏi cái “Nhân” gì đã mang đến cái “Quả” hôm nay?
Hỏi rằng ai đã trồng khoai đất này?
Trong văn hóa truyền thống Trung Hoa có quan niệm “Thiên nhân hợp nhất”, con người với thiên nhiên là một thể thống nhất, thiên nhiên cũng có cơ thể như con người. Bởi vậy, dù các triều đại lên xuống kế tiếp nhau, nhưng hàng nghìn năm qua, con dân Hoa Hạ cơ bản vẫn sống hòa hợp với môi trường thiên nhiên, tôn trọng và bảo vệ tự nhiên.
Nhưng kể từ khi Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) giành được chính quyền, “đấu Trời – đấu Đất – đấu người” trở thành triết lý của nhà cầm quyền gây ô nhiễm trăm họ. Dưới danh nghĩa cải tạo thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ con người, Trung Quốc chặt phá cây rừng vô tội vạ, có tính hủy diệt. Đơn cử như khi người ta chặt phá rừng rậm ở khu Trường Bạch Sơn thì về cơ bản cây nào cũng không thoát, cây to lấy gỗ, cây nhỏ mang về làm cán chổi. Thảm thực vật biến mất, đất bị xói mòn, rửa trôi. Kết cục là sông núi tan hoang, con người đắc chí mà không biết thói tham lam, ngông cuồng, phung phí vô hạn độ giết chết tương lai của chính mình.
Những năm 50 đến 70 thế kỷ trước, mỗi năm Trung Quốc có 1.560 km2 đất bị sa mạc nuốt chửng; những năm 70 đến 80, diện tích bị sa mạc hóa lên đến 2.100 km2; đến những năm 90, con số này lên đến 2.460 km2; đến thế kỷ 21 thì con số này đã vượt qua 3.000 km2.
Trong lịch sử Nội Mông Cổ từng có 5 thảo nguyên lớn khiến thế giới phải khen ngợi, đến nay, về cơ bản đã có 3 thảo nguyên biến mất. Thảo nguyên Ô Lan Sát Bố, thảo nguyên Khoa Nhĩ Thấm, thảo nguyên Ngạc Nhĩ Đa Tư, ba thảo nguyên này đã bị sa mạc hóa trên diện tích lớn chỉ trong 20 năm. Người huyện Hoài Lai, tỉnh Hà Bắc gọi sa mạc bị cát bay tới bao phủ là “thiên mạc”, cách Bắc Kinh chỉ 70 km, người ta cho rằng Bắc Kinh có lẽ sẽ là thành cổ Lâu Lan tiếp theo bị chôn vùi trong sa mạc.
Đó là chưa kể đến việc phá hoại nguồn nước ngọt ở Trung Quốc – nơi khởi nguồn mạch nước ngọt trên toàn cầu, cũng dẫn đến thảm họa nước ngọt và hệ sinh thái toàn cầu. Hạn hán, lũ lụt bất thường vì thế mà ngày càng thường xuyên và kịch liệt ở Trung Quốc và trên thế giới.
Bài học Lâu Lan liệu có lặp lại và cơ hội phản tỉnh cuối cùng
Chặt phá rừng và phá hoại môi trường; dịch bệnh; chiến tranh; đạo đức con người trượt dốc, phỉ báng Thần Phật… được cho là những nguyên nhân dẫn đến sự biến mất của thành cổ Lâu Lan chỉ trong một đêm. Nhưng Lâu Lan dù bại hoại cách mấy cũng khó đạt đến mức độ của Trung Quốc đương đại.
Hãy thử điểm lại mà xem. Việc Trung Quốc phá hoại môi trường vốn không còn gì để bào chữa. Dịch bệnh SARS (2003) và đặc biệt virus Vũ Hán xuất phát từ Trung Quốc tạo nên khủng hoảng nhân mạng, đạo đức, kinh tế của Trung Quốc và toàn thế giới. Con người ở Trung Quốc ngày nay, để có thể sống lương thiện đã là một điều cực kỳ khó khăn. “Chân – Thiện – Nhẫn” vốn là điều cao đẹp nhất loài người từng được biết thì lại bị chính quyền ĐCSTQ bức hại, chà đạp; hơn nữa còn lừa gạt, xúi giục, bức ép nhân dân theo mình bức hại Chân – Thiện – Nhẫn. Hiện nay nghĩ đến Trung Quốc, người ta nghĩ đến sự gieo rắc cái chết, “Death by China” đã là câu cửa miệng của con người khi nói về Trung Quốc.
Trung Quốc ngày nay so với Lâu Lan thì còn dư thừa lý do để biến mất. Nếu nhìn lại trong lịch sử nhân loại, so với bất cứ nền văn minh thời kỳ cuối nào, và đứng ở bất cứ phương diện nào thì Trung Quốc ngày nay cũng đạt tới một mức độ hủ bại lớn hơn. Nếu nó đã là đại diện của tà ác, vậy tại sao nó tiếp tục được kéo dài sinh mệnh cho đến lúc này? Chẳng phải là để nhân loại có thêm cơ hội nhận chân Thiện – Ác, Chính – Tà để không theo hùa và biến mất cùng với nó hay sao?
Dĩ nhiên cơ hội nào cũng chẳng tồn tại vĩnh viễn.
Nguyên Vũ
Chú thích:
(1): (phía đông khu tự trị Duy Ngô Nhĩ, Tân Cương ngày nay
(2): “Thành Pompeii trong cát” là tên gọi mà nhà thám hiểm Sven Hedin người Thụy Điển đặt cho Lâu Lan
(3): Trích “Lâm Giang Tiên” của Dương Thận
(4): Trích “Lương Phủ Ngâm II” của Gia Cát Lượng, bản dịch chưa rõ
(5): Trích “Vọng Lư Sơn bộc bố” của Lý Bạch, bản dịch của Nam Trân