Bảo Nguyên
Trong khi các quốc gia công nghiệp có thể được hưởng lợi từ quá trình chuyển đổi sang xe điện, các nước khác phải trả một cái giá quá lớn. Nguồn nước cạn kiệt, người dân phải rời khỏi khu đất của tổ tiên. Các khu khai thác mỏ tạo ra nguy cơ về bạo lực, quấy rối tình dục tại cộng đồng. Ngoài ra còn là vấn đề vi phạm về nhân quyền và tác động tiêu cực tới môi trường.
Thảm họa ở các vùng trên thế giới
Ở Salar de Atacama tại Chile, người dân địa phương bất lực nhìn vùng đất tổ tiên của họ khô héo và chết đi, nguồn nước quý giá của họ bốc hơi trong những hồ muối mặn.
Tại Cộng hòa Dân chủ Congo, hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp hơn tan biến khi các nhóm cực đoan do người Uganda đứng đầu được tài trợ tốt buộc trẻ em dưới 6 tuổi vào làm việc tại các mỏ coban.
Bộ lạc Fort McDermitt của Nevada (Mỹ) và các chủ trang trại địa phương chiến đấu để bảo vệ một khu chôn cất linh thiêng và vùng đất nông nghiệp sẽ trở thành vật hy sinh bởi Lithium Nevada, một công ty khai thác, trong những ngày tới.
Trong khi đó, ở California và các bang khác, các chính trị gia như Thống đốc Gavin Newsom (Dân chủ – bang California) tự vỗ ngực cho quan điểm môi trường “hung hăng” của họ và tự hào rằng lệnh cấm xe chạy bằng khí đốt của họ đang dẫn đầu “cuộc cách mạng hướng tới tương lai vận chuyển phát thải bằng 0 của chúng ta”.
Trả giá cho chuyển đổi xe điện
Theo các chính trị gia như ông Newsom và Tổng thống Joe Biden, xe điện “không phát thải” vì chúng sử dụng pin lithium-ion — bao gồm lithium, coban, graphite và các vật liệu khác — thay vì xăng.
Do đó, bắt đầu từ năm 2035, California sẽ cấm bán xe chạy bằng khí đốt, trong khi một số bang khác có kế hoạch bắt chước chính sách này, chỉ ra lệnh cấm là “cột mốc quan trọng trong cuộc chiến khí hậu của chúng ta”, theo như Thống đốc bang Washington đăng trên Twitter.
Ngoài ra, theo một tuyên bố từ ông Biden, việc cấm xe chạy bằng khí đốt sẽ “tiết kiệm tiền cho người tiêu dùng, cắt giảm ô nhiễm, tăng cường sức khỏe cộng đồng, thúc đẩy công bằng môi trường, và giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu”.
Không đồng ý với những tuyên bố như vậy, ông John Hadder, giám đốc của Great Basin Resource Watch, chỉ ra với The Epoch Times rằng các quốc gia “công nghiệp” có thể hưởng lợi từ quá trình chuyển đổi xe điện nhưng các quốc gia khác sẽ phải trả giá.
“Việc mở rộng khai thác [lithium] này sẽ gây ra những hậu quả ngay lập tức cho các cộng đồng tuyến đầu đang phải nhận ‘đòn đánh’”.
Ví dụ, Copiapó, thủ phủ của vùng Atacama của Chile, là vị trí của một trong những kho dự trữ lithium lớn nhất thế giới được biết đến.
“Trước đây chúng tôi đã từng có một con sông nhưng bây giờ thì nó không tồn tại. Không có một giọt nước nào”, bà Elena Rivera Cardoso, chủ tịch cộng đồng Colla bản địa của Copiapó, nói với Hội đồng Bảo vệ Tài nguyên Quốc gia (NRDC).
Bà nói thêm rằng tất cả nước ở Chile đang biến mất vì mỏ lithium địa phương. “Ở khắp Chile, có những con sông và hồ đã biến mất – tất cả là bởi vì một công ty có nhiều quyền về nước hơn chúng tôi với tư cách là con người hay công dân của Chile”.
Phối hợp với tuyên bố của bà Cardosa, Viện Nghiên cứu Năng lượng báo cáo rằng 65% tài nguyên nước hạn chế của khu vực bốc hơi trong nước muối mặn.
Theo Hội nghị của Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển (UNCTAD), đó là điều khiến các cộng đồng bản địa di dời khỏi nơi cư trú Atacama, nơi họ gọi là nhà trong hơn 6.000 năm qua vì nông dân và chủ trang trại đối mặt với đất nứt nẻ, khô cằn và không còn lựa chọn nào khác ngoài việc từ bỏ các khu định cư của tổ tiên họ.
Lo ngại về thiếu nước, bạo lực và quấy rối
Nói lời tạm biệt với quê hương của tổ tiên trong khi một mỏ lithium địa phương phá hủy nó là điều mà các cộng đồng ở Bắc Nevada đang đấu tranh để tránh phải đối mặt.
“Các cộng đồng nông nghiệp ở hai bên con đèo có thể sẽ bị thay đổi mãi mãi”, ông Hadder nói với The Epoch Times. “[Mỏ Thacker Pass] có thể ảnh hưởng đến khả năng trồng trọt và chăn nuôi của họ trong khu vực. Chất lượng không khí sẽ giảm… và có khả năng khan hiếm nước ngày càng tăng”.
Ông Hadder chỉ ra rằng giếng Quinn-Production ở Lưu vực thủy văn Orovada Subarea đã được phân phối ở mức độ cao và đó là lưu vực được gắn với nguồn cung cấp nước cho Thacker Pass.
Tuy nhiên, thiếu nước không phải là mối quan tâm duy nhất của người dân địa phương với Thacker Pass, ông Hadder nhấn mạnh.
“[Đại hội toàn quốc của người Mỹ da đỏ] quan ngại sâu sắc rằng khu mỏ sẽ đe dọa cộng đồng với các trại của người lao động và lực lượng lao động lớn”, ông Hadder nói. “Việc đưa các trại người lao động vào gần các khu bảo tồn đã cho thấy là có mối tương quan chặt chẽ với sự gia tăng các vụ tấn công tình dục, bạo lực gia đình và buôn bán tình dục”.
Sự quan tâm của họ là có cơ sở. Năm 2014, Liên Hợp Quốc phát hiện ra rằng “các ngành công nghiệp khai thác”, hay còn gọi là hầm mỏ, đã dẫn đến việc gia tăng các vụ quấy rối tình dục, bạo lực, hãm hiếp và hành hung gây ra bởi các “trại người lao động” hoặc công nhân tại mỏ.
Vào năm 2019, Cục Thống kê Tư pháp Mỹ đã công bố một nghiên cứu xác thực thông tin trên. Nó phát hiện ra sự gia tăng 70% tội phạm bạo lực “tương ứng với sự phát triển của ngành công nghiệp khai thác trong các khu vực, không có sự gia tăng như vậy được quan sát thấy ở các hạt lân cận không có ngành công nghiệp khai thác”.
Kinh nghiệm thực tế của người dân Congo
Đó là điều mà người dân Cộng hòa Dân chủ Congo (DRC) biết được từ kinh nghiệm thực tế.
Trong báo cáo năm 2022, tổ chức Khảo sát Địa chất học Mỹ báo cáo rằng vào năm 2021, hơn 70% sản lượng coban toàn cầu đến từ DRC và miền nam Congo đứng đầu với ước tính khoảng 3,5 triệu tấn – gần một nửa nguồn cung được biết đến của thế giới.
Đây cũng là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, theo công ty nghiên cứu phi đảng phái Wilson Center, bị tác động xấu bởi các cuộc khủng hoảng nhân đạo, một số được trực tiếp gây ra bởi hoạt động khai thác mỏ.
Vào tháng 12/2021, các nhà nghiên cứu tại Đại học Northwestern đã tiến hành đánh giá vòng đời môi trường về việc chiết xuất các nguyên liệu thô cần thiết cho xe điện và xuất bản bài báo của họ trên tạp chí One Earth.
Họ phát hiện ra rằng việc khai thác coban có liên quan đến việc gia tăng bạo lực, các thách thức về sức khỏe thể chất và tinh thần, lạm dụng chất kích thích, mất an ninh lương thực và nguồn nước, cùng các vấn đề khác. Họ cũng lưu ý thêm rằng các thành viên cộng đồng đã mất đất cộng đồng, đất nông nghiệp và nhà cửa, nơi mà những người thợ mỏ đào lên để chiết xuất coban.
“Bạn có thể nghĩ về việc khai thác chỉ là đào một thứ gì đó lên”, bà Sera L. Young, phó giáo sư nhân chủng học tại Đại học Northwestern, nói. “Nhưng họ không đào trên đất trống. Mảnh đất quê nhà được đào lên. Mọi người đang đào lỗ trên sàn phòng khách của họ theo đúng nghĩa đen. Hậu quả của việc khai thác mỏ có thể ảnh hưởng đến hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống”.
“Mọi khía cạnh của cuộc sống” đó bao gồm cả trẻ em. Ở DRC, ước tính có khoảng 40.000 trẻ em đang làm việc trong các hầm mỏ trong điều kiện lao động nô lệ – một số trẻ mới lên 6 tuổi. Ban đầu, người ta hy vọng rằng Tổng thống DRC Felix Tschisekedi sẽ hạn chế được các vụ lạm dụng, nhưng giờ đây những hy vọng đó đang dần phai nhạt.
Trong bài phát biểu trước Quốc hội Mỹ vào ngày 14/07, Giám đốc Khủng hoảng và Xung đột của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Ida Sawyer tuyên bố rằng “lao động trẻ em và các hành vi vi phạm nhân quyền nghiêm trọng khác trong lĩnh vực khai thác mỏ vẫn còn phổ biến, và những thách thức này chỉ trở nên khó giải quyết hơn trong bối cảnh tham nhũng tràn lan”.
“Các Lực lượng Dân chủ Đồng minh (ADF), một nhóm Hồi giáo vũ trang do người Uganda lãnh đạo có quan hệ với Nhà nước Hồi giáo (ISIS)… cũng như những người ủng hộ họ trong giới tinh hoa chính trị và quân sự Congo, kiểm soát các nguồn tài nguyên khoáng sản, đất đai và thủ đoạn thuế má béo bở”.
Trung tâm Wilson báo cáo rằng ước tính có khoảng 255.000 thợ mỏ Congo đang làm việc khai thác coban, chủ yếu sử dụng tay. Nó cho biết: “Khi nhu cầu toàn cầu đối với tài nguyên khoáng sản của Congo tăng lên, thì những nguy cơ làm dấy lên cảnh báo cho nhân quyền cho thợ mỏ Congo đi kèm cũng tăng lên”.
Và vi phạm nhân quyền không phải là mối quan tâm duy nhất đối với việc khai thác coban. Trung tâm Wilson tuyên bố, “việc khai thác tài nguyên khoáng sản DRC bao gồm chặt cây và xây dựng đường xá, tác động tiêu cực đến môi trường và đa dạng sinh học… Các hoạt động khai thác coban tạo ra lượng khí thải carbon dioxide và nitơ dioxide cực kỳ cao và kéo theo tiêu thụ điện đáng kể. Những lượng khí thải này góp phần vào việc Châu Phi tạo ra 5% lượng khí thải carbon dioxide trên toàn cầu”.
Trong khi đó ở California, ông Newsom ca ngợi việc tiểu bang của ông rời xa việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch. “Mục tiêu hàng năm của kế hoạch này — 35% doanh số ZEV [xe cộ không phát thải ròng] vào năm 2026, 68% vào năm 2030 và 100% vào năm 2035 — đưa ra lộ trình của chúng ta để giảm lượng khí thải carbon nguy hiểm và tránh xa nhiên liệu hóa thạch. Đó là lượng khí thải tương đương 915 triệu thùng dầu sẽ không gây ô nhiễm cho cộng đồng của chúng ta”.
Bảo Nguyên
Theo Katie Spence – The Epoch Times