Minh Đăng
Giảm phát ở Trung Quốc là một trong những hiện tượng kinh tế vĩ mô đáng chú ý trong bối cảnh lạm phát cao trên toàn cầu. Nhìn vào các nước BRICS khác: lạm phát mới nhất của Ấn Độ là 7%, Nam Phi là 8%, Brazil là 9% và Nga là 14%. Trung Quốc? Dưới 3%. Ngành bất động sản (BĐS) và việc xóa nợ (giảm nợ), và sức tiêu dùng đang kiệt quệ của người Trung Quốc giải thích cho hiện tượng giảm lạm phát. Đây là những gì Nhật Bản đã trải qua từ những năm 1990 đến năm ngoái. Nhật Bản, sau 3 thập kỷ giảm phát, hiện đang chứng kiến mức lạm phát 3%, cao hơn cả Trung Quốc.
Lạm phát (tốc độ tăng giá) là kết quả của việc dư thừa tiền. Nếu tiền được tạo ra được hấp thụ bởi các hoạt động thực tế, các sản phẩm tài chính hoặc các tài sản khác, thì sẽ không có lượng dư thừa để tạo ra lạm phát. Tuy nhiên, Trung Quốc đang trải qua suy thoái kinh tế (suy giảm hoạt động kinh tế) và xóa nợ tài sản (giảm nợ), tiền thực sự đã chảy ra từ các thị trường này thay vì ngược lại. Có thể nói, sẽ có dư thừa thanh khoản (tiền mặt khả dụng) do chính phủ đã thúc đẩy trong nhiều năm. Nhìn vào dữ liệu cung tiền: tăng trưởng M0 (tiền tệ vật chất) qua từng năm (YoY) đang có xu hướng lên tới 14% và của M2 là 12%.
Tiền tắc nghẽn trong nợ xấu và tài sản xấu
Tuy nhiên, tiền sẽ chỉ tạo ra lạm phát nếu nó “chảy” – lưu thông trong nền kinh tế. Một kho tiền chất đống, tắc nghẽn ở đâu đó trong nền kinh tế, sẽ không có bất kỳ tác động kinh tế nào. Dòng tiền được đo lường tốt nhất bằng tín dụng. Nhìn vào tăng trưởng các khoản cho vay bằng nhân dân tệ so với cùng kỳ năm ngoái: Nó đã giảm từ mức cao nhất 34% vào cuối năm 2019 xuống dưới 11% vào tháng 8, một mức trở lại năm 2002, chưa từng thấy trong hai thập kỷ. Đây chính xác là hiện tượng đã thấy ở Mỹ từ năm 2008 đến năm 2015, nơi ba vòng nới lỏng định lượng (tăng cung tiền) với lượng tiền khổng lồ được bơm vào không tạo ra bất kỳ áp lực lạm phát có ý nghĩa nào – lạm phát vẫn dưới 2%.
Về nguyên tắc, tăng trưởng cung tiền (M2) nên bao hàm xu hướng của lạm phát với độ trễ từ 1,5 đến 2 năm. Biểu đồ kèm theo cho thấy trường hợp của Trung Quốc, nơi mà tốc độ tăng M2 và CPI YoY được đặt cùng nhau (tốc độ tăng của hai chỉ số này được đo lường ở hai trục tung). Trong giai đoạn 2002 và 2015, lạm phát ở Trung Quốc thực sự vận động thuận chiều với cung tiền, trong đó lạm phát có độ trễ so với cung tiền là 18 tháng. Điều này hợp lý và phản ánh đúng quy luật kinh tế.
Kể từ năm 2015, khi thị trường BĐS của Trung Quốc bắt đầu sụp đổ trong khi các nền kinh tế phương Tây phục hồi, thì lạm phát không còn vận hành theo xu hướng của tăng trưởng tiền tệ. Một hiện tượng tương tự đã được nhìn thấy trước năm 2002.
Tín dụng chi phối vận tốc tiền tệ. Nhưng cái mà mọi chính phủ cần là thúc đẩy tín dụng chảy ra với vận tốc cao hơn để thúc đẩy triển vọng kinh tế sáng sủa hơn. Nhưng khi nền kinh tế đã xuất hiện các khu vực kinh tế thất bại, nơi dòng tín dụng chảy ra nhưng bị kẹt cứng trong đó thì không cách nào thúc đẩy vận tốc tín dụng, nền kinh tế cũng không có hy vọng gì về một triển vọng kinh tế sáng sủa hơn.
Giảm lãi suất là một giải pháp bằng cách hạ giá chi phí tín dụng, nhưng lãi suất cho vay rẻ hơn một vài điểm cơ bản sẽ không giúp ích được gì. Ngoài ra, khoản lỗ dự kiến từ việc đi vay có thể lớn hơn chi phí giảm xuống, dẫn đến việc không muốn vay và đầu tư. Điều này cho thấy chỉ khi triển vọng kinh tế được cải thiện về cơ bản thì tín dụng mới gia tăng tốc độ. Và triển vọng sẽ chỉ được cải thiện nếu giá tài sản không còn được định giá quá cao (được xóa hoàn toàn).
Việc điều chỉnh giá chậm chạp có nghĩa là quá trình xóa bỏ đòn bẩy sẽ diễn ra rất chậm. Điều này cũng có nghĩa là một kỷ nguyên giảm phát kéo dài hoặc thậm chí giảm phát sẽ kéo dài hơn một thập kỷ — việc theo đuổi sự ổn định chính trị bằng mọi giá.
Không có quyền tiêu dùng cũng tạo ra giảm phát
Ngoài việc tiền bị tắc nghẽn trong nợ xấu, tài sản xấu (gồm cả hoạt động đảo nợ), thì nguyên nhân khiến lạm phát không tăng cao ở Trung Quốc chính là do tiêu dùng của người Trung Quốc ngày một kiệt quệ. Nói cách khác, thứ tạo ra lạm phát là cầu kéo và phí đẩy thì cả hai đã không ‘tác động’ trong trường hợp của Trung Quốc.
Với cầu kéo, tiêu dùng trong nước ảm đạm chưa từng có trong lịch sử. Chỉ số niềm tin tiêu dùng của Trung quốc lao dốc thẳng đứng kể từ tháng 4/2022 cho tới nay, chạm tới mức thấp kỷ lục, chưa từng có kể từ khi chỉ số này được thống kê và công bố. Chỉ số niềm tin tiêu dùng (đường mầu đen) của người Trung Quốc thấp chưa từng có kể khi được thống kê trong khi giá nhà sản xuất tăng mạnh (đường mầu xanh), khác hẳn với sự suy giảm của lạm phát (Nguồn: Trading Economics, ảnh chụp màn hình bởi NTDVN).
Lý do là vì Trung Quốc thực thi chính sách ‘zero Covid’ khắc nghiệt khiến thu nhập của người dân kiệt quệ, tiêu dùng bị thu hẹp nhanh chóng.
Nhưng đây là lý do ngắn hạn. Trong nhiều thập kỷ trở lại đây, khoảng cách thu nhập giầu – nghèo của Trung Quốc tăng mạnh, tầng lớp nghèo gia tăng làm thu hẹp tầng lớp trung lưu, vốn là lực lượng tiêu dùng mạnh nhất. Theo một tuyên bố của Thủ tướng Lý Khắc Cường, có tới 600 triệu người Trung Quốc không có quyền tiêu dùng. Đây là nhóm lao động có thu nhập chỉ ở mức 140 USD/tháng. Mức thu nhập chỉ đủ chi trả tiền thuê nhà và thực phẩm, họ thực sự không có quyền tiêu dùng.
Giá BĐS quá cao so với thu nhập bình quân của người dân cũng khiến người dân đổ hết tiết kiệm vào nhu cầu nhà ở. Theo số liệu công bố của trang numbeo.com, giá BĐS/thu nhập bình quân tại các thành phố lớn của Trung Quốc ở mức 38,43 lần vào tháng 6/2022, con số này vào năm 2020 chỉ là 30 lần. Trong 3 năm qua, giá BĐS suy giảm mạnh, đáng lẽ chỉ số giá BĐS/thu nhập bình quân của Trung Quốc phải được cải thiện tốt hơn (giảm hơn). Nhưng rõ ràng, thu nhập bình quân của người Trung Quốc đã lao dốc nhanh hơn cả giá BĐS. Hiện tại, theo trang thống kê này, Trung Quốc nằm trong top 6 nền kinh tế có giá BĐS/thu nhập bình quân của người dân cao nhất. Khi thu nhập trở nên quá khó để mua nhà hoặc phần lớn thu nhập phải để thuê nhà thì sức tiêu dùng sẽ suy giảm ‘bền vững’.
Về phí đẩy thì sao? Giá nhà sản xuất ở Trung Quốc liên tiếp lập kỷ lục mới trong một năm trở lại đây do khủng hoảng giá năng lượng toàn cầu và đứt gãy chuỗi cung ứng. Mặc dù đã giảm nhẹ trong hai tháng gần đây nhờ giá dầu thô giảm và hưởng lợi từ giá dầu, lương thực bán ra từ Nga, nhưng giá nhà sản xuất vẫn đang trong xu hướng tăng. Vấn đề ở chỗ là giá nhà sản xuất, sau hàng năm, không hề truyền dẫn tới giá tiêu dùng (lạm phát). Điều này cho thấy Trung Quốc thực sự là công xưởng sản xuất toàn cầu. Hàng hoá sản xuất chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu. Nhờ vậy, Trung Quốc chỉ xuất khẩu lạm phát ra toàn cầu trong khi nền kinh tế trong nước lại có xu hướng giảm phát.
Minh Đăng – Thanh Đoàn