Phạm Thảo Nguyên
Họa sĩ Đông Sơn vẽ ra Tý Toét vào đầu thập niên 1930, và tờ báo đầu tiên
đăng tranh Lý Toét, là Phong Hóa. Đó là hai điểm chính, về cụ Lý được
dân chúng yêu chuộng đặc biệt từ gần tám chục năm nay. Tìm đọc lại báo
Ngày Nay Xuân 1940, mới biết Nhất Linh có giải thích rõ ràng chi tiết về
lý lịch của cụ, trong bài viết “Lịch sử Lý Toét…”, Báo Xuân Ngày Nay
1940, tóm tắt như sau:
Tên Lý Toét ra đời trước, rồi hình người Lý Toét mới ra đời sau.
Năm 1930, trong báo Tứ Dân, người đẻ ra “tên- Lý Toét” lại là Tú Mỡ Hồ
Trọng Hiếu (chuyên viên thơ trào phúng của Tự Lực Văn Đoàn), từ “đẻ ra”
sáng tác bởi Nhất Linh. Còn Họa sĩ Đông Sơn và bà Phụ Nữ Thời Đàm đẻ ra
“hình- Lý Toét” sau. Sự tích là: Đông Sơn một hôm đang xem báo Phụ Nữ,
vẽ nghịch một ngườì nhà quê, thấy hay hay nên xé ra vứt vào ô kéo, chưa
biết để làm gì. “Quý vị ơi! Nhìn hình dưới đây đi! Nó đấy, chính nó đấy,
mảnh giấy nhật trình có chân dung “thủy tổ” của tất cả các Lý Toét sau
này đấy!”:
Đúng là không có bà Phụ Nữ Thời Đàm thì không có Lý Toét, Nhất Linh nói
chí lý thật! Trên bức hình đó Lý Toét trẻ hơn sau này nhiều, đã được mặc
áo dài khăn đóng, như mọi cụ già thời đó. Lại có đủ cả râu ria, búi
tóc, cụ xách thêm đôi dép da gia định và cắp cái ô đen: Cá tính được
định hình. Cụ thường xách dép lên, đi đất, vì ngại chóng hỏng đôi dép
cũ. Cái ô cũng ít khi mở ra, cụ để dành đánh chó và đeo lên vai cho oai.
Nhưng chúng cũng làm khổ cụ, vì cứ bị tụi trộm nhỏ nhít đặt vào tầm
ngắm, quấy phá luôn luôn. Nào dép, nào ô, nào khăn cứ bị trộm rình!
Chắc các bạn còn nhớ: Bắt đầu từ Phong Hóa số 14, ra ngày 2 tháng 9-1932
chủ bút mới là Nguyễn Tường Tam. Cùng em là Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long
và các bạn như Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, Khái Hưng Trần Khánh Giư …mới phụ
trách tờ Phong Hóa. Ngay trong số 14 này, ta bắt gặp Đông Sơn đưa hình
cụ (chưa có tên) về Hà Nội trên một chuyến xe đò đông như nêm cối (hình
dưới). Các bạn có nhìn thấy cụ ngồi trên mui xe ngay trên đầu tài xế đó
không? Họa sĩ Đông Sơn thật hóm, giấu kỹ chẳng cho ai biết tin gì cả!
Nhưng lòi đuôi! Tuy nhiên, rất có thể chính ông cũng không biết là mình
đã cho cụ về thành hôm đó, trên chiếc xe đò đó! (Mà này, nhỡ ông vẽ mà
không biết là có cụ trốn trên mui đó thì oan cho ông nhỉ!?)
Nhất Linh còn kể là Lý Toét ra mắt độc giả ngay từ số Phong Hóa 14,
nhưng còn ngơ ngác vì chưa có tên. Sau đó Đông Sơn đính thêm cái tên Lý
Toét vào hình vẽ, thế là Phong Hóa có trong tay một nhân vật hý họa hoàn
chỉnh. Lý Toét nom thật có duyên:
Lần đầu tiên Tứ Ly đem Lý Toét-tên (không có hình), lên báo Phong Hóa
trong số 35, trong bài viết “Cuộc Chợ Phiên của Phong Hóa tổ chức”. Lúc
đó, Lý Toét-hình, không tên, chỉ dùng để trang trí cho mục Vui Cười mà
thôi:
Tới số 48, năm 1933, Phong Hóa có tranh “Lý Toét ra tỉnh” thứ nhất. Đó
là lần đầu cụ Lý có đủ tên+hình, cùng cái dáng lom khom hay đặt câu hỏi
lạ lùng:
Thế rồi tới Phong Hóa số 59, bức vẽ “Lý Toét ra tỉnh” thứ hai, do Đông Sơn vẽ dưới đây, (ký tên chữ nho) chiếm ngay trang bìa:
Đông Sơn Nhất Linh biết rằng nhân vật này sẽ chinh phục độc giả toàn
quốc! Quả như vậy, Lý Toét đã làm mưa làm gió trên văn đàn nước ta trong
suốt thập niên 1930. Trước hết, về cá nhân Lý Toét, tính chất tổng quát
được mọi người cùng chấp nhận bất thành văn, là:
Lý Toét là một ông già nhà quê, có chức phận trong làng, chức Lý trưởng,
nên được gọi là Lý, mắt bị bệnh đau-mắt-hột từ bé, thành ra nó cứ kèm
nhèm, như viền vải tây đỏ, ta gọi là mắt toét. Nhập hai chữ Lý và Toét
vào nhau thành tên luôn, chứ Lý Toét không phải là tên cúng cơm, bố mẹ
đặt cho.
Lý Toét nghèo, sống ở thôn quê, chưa từng được thấy những thứ văn minh
ngoài phố do người Pháp mang lại. Lý biết đọc chữ quốc ngữ, biết ít chữ
nôm, chữ nho, nhưng không hiểu tiếng Pháp, nên có nhiều phen không thông
về chữ nghĩa, nhầm chữ nọ sang chữ kia tí chút. Vì nghèo nên Lý Toét
tham ăn, lại nghiện rượu, nên ích kỷ, chỉ muốn mình được phần to, thêm
nữa, không hiểu gì về vệ sinh, ăn ở dơ bẩn, nên cả tin, sợ hãi đủ mọi
thứ. Lý Toét rất mê tín, thờ đủ mọi loại thần thánh, từ con cóc sành
trên bể nước ngoài vườn hoa, đến con hổ sống trong chuồng Vườn Bách Thú…
Vợ con ở quê rất lếch thếch. Lý Toét có một cô con gái lớn tên là Ba
Vành, cô này xưa bỏ nhà ra đi, rồi lấy tây. Thỉnh thoảng cụ Lý có xuống
vùng mỏ thăm con gái, báo Xuân Phong Hóa, số 85 tường thuật thế. Cô có
con, thỉnh thoảng con bị sài đẹn cũng mang vào bệnh viện chữa, làm cụ Lý
đi tìm thăm thật khốn khổ. Phong Hóa có tranh chân dung của cô, cô mặc
áo tân thời, nom cũng đẹp ra phết (khi trước còn ở dưới quê thì vẫn vận
áo tứ thân). Nhân vật ảo Lý Toét với đầy đủ tính cách như vậy, được họa
sĩ Đông Sơn sáng tác ra. Nhưng cha đẻ của Lý Toét đã rất hào phóng không
giữ tác phẩm cho riêng mình, mà rủ tất cả mọi người cùng tham dự vẽ Lý
Toét! Do đó, cùng với Đông Sơn Nhất Linh, các họa sĩ của Phong Hóa nhẩy
vào vẽ Lý Toét với đầy hứng thú trong các tranh vui của báo Phong Hóa.
Thế là: Cuộc Vui “Vẽ Lý Toét” bắt đầu!
Mỗi họa sĩ anh tài của Phong Hóa vẽ ra một Lý Toét dung mạo khác hẳn
nhau, nhưng cùng tính cách, vẫn nhận ra được. Độc giả có thể ngắm các Lý
Toét khác nhau trong hình trên của các họa sĩ Đông Sơn, Nhất Sách, Tô
Tử tức Ái Mỹ Tô Ngọc Vân, Lemur tức Nguyễn Cát Tường, Bloc tức Trần Bình
Lộc, Ngym tức Ngạc Mai tức Trần Quang Trân, Trần An….
Nhân vật Lý Toét với rất nhiều tranh chân dung đó, đã nổi lên vững vàng
thân ái như một vì sao mới mọc trong lòng độc giả báo Phong Hóa. Sau này
có thêm danh họa Nguyễn Gia Trí (lúc đó mới ra trường) tức Rigt, tức
Gtri, cùng nhiều người khác, kể cả Lê Ta Thế Lữ cùng vẽ chân dung Lý
Toét (vẽ chữ số thành hình cụ Lý).
Nhưng ngắm tranh Lý Toét lâu, ta thấy cụ có vẻ hơi… cô độc, thiếu bạn.
Và việc phải đến, đã đến: Xã Xệ xuất hiện. Nhất Linh gọi đó là do tự
nhiên phải thế. Xã Xệ là một nhân vật bằng vai phải lứa với Lý Toét.
Xã Xệ béo ịt, thấp lè tè, đầu trọc lông lốc, còn độc một sợi tóc quăn
xoắn ốc trên đỉnh. Hình ảnh Xã Xệ hoàn toàn đối chọi với Lý Toét gầy đét
và cao lênh khênh. Xã ra đời để đấu láo với Lý, cãi chầy cãi cối với
Lý, chung buồn chung vui với Lý… Ngớ ngẩn, lẩn thẩn sống cuộc đời mới
của dân nô lệ mất nước, dưới sự bảo hộ của mẫu quốc Phờ Lăng Xa cùng
Lý.
Cha đẻ của Xã Xệ là họa sĩ Bút Sơn, từ Sài Gòn gửi tranh vẽ ra Hà Nội.
Tôi nghĩ vị này là một độc giả yêu quý Phong Hóa, nên tạo ra nhân vật Xã
Xệ đối kháng với Lý Toét. Ông lấy hiệu Bút Sơn để nhái Đông Sơn. Nhưng
Nhất Linh đến tận khi mất, vẫn chưa biết tên thật của Bút Sơn. Trên tờ
di cảo “Đời làm báo” ghi tất cả tên và bút hiệu các cộng sự viên, trong
cũng như ngoài Tự Lực Văn Đoàn, Nhất Linh có hàng chữ sau:
Bút Sơn ở Sài Gòn (Người đẻ ra Xã Xệ), tên thật chưa biết. Xin ông Bút Sơn (nếu ông còn sống) hoặc các bạn, cho biết tên thật.
Hiện nay chúng tôi được biết tên thật họa sĩ Bút Sơn là Lê Minh Đức.
“Theo nhà báo nhà thơ trào phúng Tú Kềnh viết trên báo Bình Minh Xuân
Mậu Thân 1968 xuất bản ở Sài Gòn thì: Vào năm 1936 báo Phong Hóa, nhóm
Tự Lực Văn Ðoàn, ở Hà Nội, có tổ chức cuộc thi vẽ tranh hài hước, họa sĩ
chuyên vẽ tranh hài hước Bút Sơn Lê Minh Ðức ở Sài Gòn vẽ một bức tranh
gửi ra Bắc dự thi” (1).
Thật ra, lần đầu tiên Xã Xệ xuất hiện trong tranh Bút Sơn là ngày 16
tháng 3 năm 1934, trên báo Phong Hóa số 89. Xã Xệ đã được đón tiếp thật
nồng hậu. Xã cùng Lý lên ngay trang bìa của báo. Dưới đây là bức tranh
trên Phong Hóa, Xã Xệ ra mắt toàn dân An Nam, cõi Đông Pháp, với lối lý
luận hạng nhất:
Vậy là báo Phong Hóa đã tạo dựng được cặp đôi hý họa Lý Toét, Xã Xệ,
mang rất nhiều “đặc tính dân tộc”, đi vào lịch sử văn học Việt Nam:
Tranh Lý Toét Xã Xệ không của riêng ai, thật là thú vị. Mỗi bức tranh có
khi là một tấm, có khi là một loạt nhiều tấm như phim hoạt họa, với lời
chú giải ngắn gọn hoặc vài câu thoại, chính là một câu chuyện nhỏ,
nhiều khi rất thâm trầm, nhiều khi mộc mạc… Ai có một vài ý nghĩ chủ đạo
là có thể vẽ ra một tranh hay, nếu không biết vẽ thì viết thành truyện
cười Lý Toét cũng không kém phần dí dỏm.
Trong khi đó, nhờ những cuộc thi tranh khôi hài của Phong Hóa, nhiều họa
sĩ bên ngoài tòa soạn đã tới vẽ cho Phong Hóa như NG9, HKB, DLAN, Trần
An, 2TTG, Mạnh Quỳnh… và rất nhiều người không chuyên cũng vẽ. Thêm nữa,
các họa sĩ còn mang hình ảnh LýToét Xã Xệ phổ biến, nhân rộng ra khắp
các báo thời bấy giờ, từ ngoài Bắc tới trong Trung, trong Nam. Họa sĩ
thích vẽ, người thường thích kể chuyện, báo nào có Lý, Xã thì có nhiều
người đọc. Đến nỗi cặp đôi này đã trở thành những nhân vật để quảng cáo!
Có những bài quảng cáo thuốc, quảng cáo rượu của Lý Toét đăng ngay trên
Phong Hóa, Ngày Nay rất nhiều lần.
Để cạnh tranh, báo Thanh Niên số 2, ra ngày 27-1-34 cho ra đời “Xã
Dù”một anh em họ hàng với Lý Toét. Nhưng tiếng tăm của Xã Dù quá lu mờ,
nay không ai còn biết hay nhớ đến (bài Cuộc Điểm Báo, Phong Hóa số 84).
Như vậy là Đông Sơn Nhất Linh đã dựng ra được một phong trào có vô số
họa sĩ trong, ngoài tòa báo, cùng độc giả “dấn thân”, đua nhau sáng tác
ra vô số tranh Lý Toét Xã Xệ kể chuyện vui đùa!
Còn gì thú vị hơn!
Từ đó, Lý Toét Xã Xệ xuất hiện đều đặn trên báo Phong Hóa và Ngày Nay,
qua những truyện vui lý sự cù nhầy. Thỉnh thoảng Lý Toét có bài viết
riêng như “Điều thỉnh cầu của Lý Toét” (Phong Hóa số 68), bài thơ Vợ Lý
Toét Khuyên Chồng, trong mục Dòng Nước Ngược, thơ trào phúng của Tú Mỡ,
rồi Lý Toét Trả Lời, Lý Sự Cùn viết… Lâu lâu báo có đăng Lý Toét Phú,
Xã Xệ Phú, Ván Cờ Lý Toét, cả Văn Tế Lý Toét (của Đỗ Đức Thu, làm trước,
phòng khi…) …
Nhưng nhiều nhất, được chú ý nhất, vẫn là những bức tranh Lý Toét Xã Xệ,
với những cảnh trông thấy, gập thấy trên tỉnh. Có nhiều kỳ báo Phong
Hóa, Ngày Nay có cả năm, bẩy tranh Lý, Xã trên cùng một số báo. Tranh
nào cũng kể những chuyện ngây ngô, những suy nghĩ, suy luận chéo cẳng
ngỗng, những hiểu lầm về ngôn ngữ tây ta tầu… Những câu chuyện vui vu
vơ, vô tội này, ngày một lan rộng, ngày một thu hút. Những tính tình xấu
xí, gàn bướng, cù nhầy, đáng cười… của người đời được diễn tả, phô bầy
dưới hình thức khôi hài rất duyên, rất khéo… Trong đó, Lý, Xã rất
“nghệ”, với những phản ứng không giống ai, diễn tả được biết bao khía
cạnh khác nhau của cuộc sống…. Quý vị độc giả đừng tưởng hai cụ nhà quê
này luôn luôn khù khờ, trái lại, có khi rất láu đấy! Và trong nhiều
tranh các cụ lý luận hay đáo để!
Khi Lý Toét phải ra tòa trả lời tội gửi thư với tem đã đóng dấu. Cụ Lý
trả lời quan tòa tây: “Lần nào nhận thư của con gái, là cô Ba Vành, gửi
về cũng thấy tem đã đóng dấu”.
Đúng quá chứ!
Cặp bài trùng Lý Xã của Phong Hóa Ngày Nay dần dần trở nên vô cùng nổi
tiếng, được sự ủng hộ triệt để của quốc dân, từ trẻ con tới người lớn.
Người coi tranh, mê tranh mỗi ngày một nhiều, tạo ra một hiện tượng xã
hội chưa từng có. Năm 1933, Georges Mignon, trong Nụ Cười Tân Á, khen
ngợi Lý Toét của Phong Hóa (2). Và năm 2007, tại Mỹ có bài nghiên cứu
của George Dutton: Lý Toét in the City (3),.. Còn ở Việt Nam thì tới
ngày nay vẫn có lai rai bài viết, khảo cứu, kịch, chèo… về Lý Toét.
Ròng rã từ 1932 tới cuối năm 1940, tranh Lý Toét là những cú đâm xầm vào
đời sống văn minh mới, do “mẫu quốc” mang tới, của hai cụ nhà quê cổ hủ
“đẫm đặc dân tộc tính”. Đó cũng là lúc dân ta đang gập phải cái “chạm
trán tóe lửa” của hai nền văn hóa Đông Tây. Như bà văn sĩ Pearl Buck
(giải thưởng Nobel về văn chương 1938) trong truyện ngắn ‘Bà Mẹ Già”,
Huyền Hà dịch, Ngày Nay số 200, 1940, kể chuyện bên Tầu: Cô con dâu đi
du học về, trong bữa cơm đại gia đình, đã: “hét inh lên vì sợ, khi thấy
bà cụ mẹ chồng đưa đôi đũa đã liếm nghiêm chỉnh thật sạch trước, chọc
vào đĩa thức ăn chung của cả nhà”.
Đồng thời trong những bức tranh nhỏ Lý Xã, các ý tưởng được đào sâu dần,
nói lên được nhiều điều muốn nói. Người đọc ngày một thấm thía về thân
phận người dân nhược tiểu mất nước, khi đa số dân chúng còn chưa được
giáo dục, vô kỷ luật, hay sợ hãi, mê tín, và cam chịu tủi nhục dưới ách
nô lệ của Pháp. Những bức tranh hý họa nhẹ nhàng hóm hỉnh đó phơi bầy
dần dần những thói hư tật xấu của dân ta. Có người cho rằng báo PH NN đã
bôi xấu người nhà quê! Không! ta phải hiểu rằng nếu dân ta còn nghèo
đói, vô học, sống khổ sở như thế, chịu bao nhiêu bóc lột đè nén như thế,
thì lẽ dĩ nhiên hủ lậu mê tín phải sinh ra tham lam, ích kỷ, …Nhưng tới
đó thì chúng ta phải tự hỏi: “Phải làm gì đây?”
Đó là chủ ý của Tự Lực Văn Đoàn: dùng văn chương, báo chí để vận động cải tạo xã hội.
Trong bài Trả lời Tân Xã Hội, Hoàng Đạo viết trên Ngày Nay số 30, năm
1936: “Ông sẽ phải công nhận như chúng tôi, là dân chúng -hầu hết là dân
quê- chỉ biết mình khổ cực, đói rét, chứ chưa biết đường tự bênh vực
lấy mình. Vậy công việc tối quan trọng của ta, của chúng tôi, của ông,
là làm thế nào cho họ hiểu hết quyền lợi nghĩa vụ của họ. Công cuộc to
tát không phải một ngày mà nên: công cuộc ấy có thành cũng nhờ một phần
lớn ở sự tự do báo chí và tự do kết đoàn”(4).
Thực vậy, muốn dân chúng hiểu nghĩa vụ và quyền lợi của họ, thì việc đầu
tiên là phải thu hút dân chúng bằng báo chí, phải tìm cách làm dân muốn
nghe, thích nghe ta nói. Vậy trước hết, hãy xét lại chính mình. Hẳn
trước khi thành người thành thị, ai chẳng có gốc gác nhà quê, không là
ta, thì bố mẹ ông bà ta, đã từng ngớ ngẩn “nhà quê lên tỉnh” như thế. Mà
người Việt nào cũng có quê, như Nguyễn Trãi quê Nhị Khê, Nguyễn Du quê
Tiên Điền, Hồ Xuân Hương quê Nghi Tàm, Cao Bá Quát quê Phú Thị… Mồ mả
các cụ tổ tiên chúng ta đều còn ngay ở giữa những cách đồng lúa lầy lội
đó, chứ đâu? Mà cũng những nơi nhà quê đó, có kho tàng vốn cổ ai cũng
say mê, đó là những tranh khôi hài, các chuyện cười, chuyện diễu, chuyện
tiếu lâm, phóng đại, nói khoác… Chuyện được truyền khẩu từ ngàn xưa, từ
các bác dân quê như Ba Giai, Tú Xuất ngoài Bắc, tới bác Ba Phi trong
Nam, cùng các vị trí thức không theo lề lối quan trường như các Trạng,
Trạng Quỳnh, Trạng Lợn,… rất nhiều. Những chuyện đối đáp với sứ Tầu của
các vị thiền sư từ hơn nghìn năm trước, hay giai thoại những câu đối đáp
giữa Chiêu Hổ, Hồ Xuân Hương ai mà chẳng mê. Và các tranh cổ ngộ nghĩnh
được bán trong những phiên chợ quê, chợ Tết, như Đám cưới chuột, Vinh
quy, Đánh ghen, Hứng dừa… của làng Đông Hồ, ai mà chẳng thích?
Ta hãy ngắm lại hai tấm tranh Đông Hồ dưới đây:
Trong khi đó, người đầu đàn của Tự Lực văn đoàn Nhất Linh Đông Sơn là
một họa sĩ. Các thành viên khác như Thế Lữ, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch
Lam… cũng có thú vẽ tranh không phải thường. (Nếu bạn đọc tinh ý thỉnh
thoảng có thể bắt gập trong Phong Hóa hoặc Ngày Nay những bức vẽ rất đẹp
ký tên Khái Hưng, Tứ Ly, … Đặc biệt, Ngày Nay số 198, xuân 1940, có in
tranh vẽ của nhiều thành viên Tự Lực Văn Đoàn: Khái Hưng, Tú Mỡ, Thế Lữ,
Hoàng Đạo, Thạch Lam). … Với tinh thần mỹ thuật từ bản chất của ban
biên tập như thế, hai báo Phong Hóa, Ngày Nay sử dụng tranh ảnh trang
trí rất nhiều, luôn luôn có họa sĩ nhà nghề làm việc minh họa. Những họa
sĩ lớp mới này được học rất bài bản, họ học được kỹ thuật hội họa Tây
phương tại trường Mỹ Thuật Đông Dương tại Hà Nội (Khóa đầu của trường
tốt nghiệp năm 1930). Vì vậy, họ sử dụng rất thông thạo kỹ thuật hý họa
kiểu tây phương, để đùa rỡn các ông dân biểu, các quan thượng thư …với
mục đích sửa lưng các ông, xin các ông nhớ đến dân đến nước, và làm cho
công chúng hiểu đời sống chính trị hơn… Những năm sau có thêm Bang Bạnh
và Ba Ếch trong thể giới hoạt kê đó, giúp các họa sĩ tạo được nhiều màu
sắc, nhiều khía cạnh sâu xa hơn trước. Tuy nhiên, hai nhân vật này không
được yêu thích bằng Lý, Xã.
Cũng với lý tưởng làm thay đổi bộ mặt xã hội, dân sinh, TLVĐ và các họa
sĩ, kiến trúc sư đã giới thiệu cách sống mới hợp vệ sinh, kiểu nhà mới
Ánh Sáng và nhất là việc sáng tác áo dài kiểu mới Lemur cho phụ nữ, một
thành công vang dội, tới ngày nay “áo dài” còn chịu nhiều ảnh hưởng.
Trong khi đó Tứ Ly Hoàng Đạo viết hàng loạt bài trên Phong Hóa Ngày Nay
như Trước Vành Móng Ngựa, Bùn Lầy Nước Đọng, Công Dân Giáo Dục, Có Cứng
Mới Đứng Đầu Gió (ký tên Tường Vân),… kể chuyện trong tòa án, giải nghĩa
nhiệm vụ công dân, chỉ dẫn cho dân chúng về pháp luật, để họ hiểu và
biết cách sống, cách cư sử cho khỏi bị ép buộc vô lý, và cũng để tờ báo
mưu tính những cải cách về xã hội.
(Trong bài viết ngắn này, chúng tôi không nói tới sự nghiệp văn chương
lừng lẫy của các văn hào, thi bá, thành viên Tự Lực Văn Đoàn, mà chỉ xin
nhắc thêm rằng các tiểu thuyết, thơ mới, kịch nói…của các vị, đã làm
say mê bao thế hệ người Việt, đã thay đổi cách viết, cách sử dụng chữ
Việt, văn chương Việt, đã trợ giúp rất nhiều cho công việc cải tạo xã
hội về mọi mặt).
Ngắm lại những bức tranh Lý Toét thật lý thú, báo Phong Hóa Ngày Nay có
khá nhiều: gần 1000 tấm. Hai khía cạnh mỹ thuật và khôi hài, đã trộn vào
nhau rất ăn ý. Chúng là một sáng tạo tài tình gồm cả đông lẫn tây, cả
xưa lẫn nay, trong suốt một thập niên đã nở rộ đến không ngờ: Phong Hóa
và Ngày Nay càng ngày càng càng đông người đọc, đã trở thành một tờ báo
không đối thủ trong làng báo lúc đó, mà cũng có lẽ cả lịch sử báo chí
Việt Nam xưa nay. Có lần tờ báo Xuân Phong Hóa đã phải xuất bản lần thứ
hai, vì nhu cầu bạn đọc. Trong tinh thần phản đối Khổng giáo lỗi thời
hành hạ con người, đả phá thái độ phong kiến quan lại cũ, chế diễu lòng
mê tín ngu muội, tố cáo sưu cao thuế nặng của tờ báo, những tấm tranh bé
nhỏ đã đụng được tới rất nhiều vấn đề, rất nhiều hủ tục, thói xấu, đã
phá bớt “những ý kiến cổ hủ, nó làm mờ mịt khối óc người ta”. Riêng
những vấn đề xã hội, chính trị thực sự, chỉ được nói đến một cách rất
nhẹ nhàng, chúng được giấu rất kỹ để tránh kiểm duyệt rất khắt khe của
thực dân Pháp, …. Tuy vậy, ngày 31 tháng 5 năm 1935, Phong Hóa đã bị
Thống sứ Bắc Kỳ đình bản ba tháng. (Tới nay, không ai biết tại sao báo
bị đóng cửa. Có người cho là do loạt bài “Thần thoại tân thời” Hậu Tây
Du Ký nói động đến Phạm Quỳnh, Nguyễn Tiến Lãng cuả triều đinh Huế, có
người cho là do bài phóng sự sắc bén về Hoàng Trọng Phu, đều do Hoàng
Đạo viết. Tất cả chỉ là phỏng đoán, theo cuốn Tiếng Cười của Tú Mỡ, (Vu
Gia, cuốn Hoàng Đạo, nhà báo, nhà văn, (6)).Theo Martina Nguyễn Thục
Nhi: “Do cả hai điều trên”, trong hồ sơ của phòng nhì Pháp: việc đóng
cửa ba tháng báo Phong Hóa là do báo này đã chế riễu các quan lại An
Nam.
Ngày 5-6-1936, Phong Hóa số 190 đăng một tranh Lý Tóet vẽ nhái theo
chuyện “Tam anh chiến Lã Bố” của Tam Quốc Chí, rất đẹp, không có chữ ký
họa sĩ. Ngắm nét bút đặc biệt sống động, ta có thể nhận ra họa sĩ vẽ
tranh là Tô Tử tức Tô Ngọc Vân, một trong những họa sĩ chính của Phong
Hóa thời đó. Theo thông lệ, các tranh khôi hài thường được mang ra bàn
luận trong giờ làm việc chung của cả tòa soạn. Một bức tranh nhiều ẩn ý
sâu xa, mà không ký tên tác giả chắc là do sự góp ý của nhiều thành viên
tòa soạn.
Theo sách Tam Quốc Chí, vào đầu công nguyên ba nước Ngụy, Thục, Ngô chia
nhau nước Tầu, tranh dành quyền lực, gây chiến tranh dài cả trăm năm.
Trong một trận đánh quyết liệt, tam anh, Lưu Bị, Quan Vũ và Trương Phi,
nước Thục, cùng nhau vây đánh Lã Bố, nước Ngụy. Lã Bố tuy là đại tướng
nổi tiếng vô địch, nhưng mãnh hổ nan địch quần hồ, đã thua. Truyện này
rất phổ thông ở Việt Nam, trước đây gần như ai cũng biết. Trong các buổi
diễn tuồng cổ, màn này thường được trình bầy rất sôi nổi, các diễn viên
hóa trang kiểu xưa, mặt mày tô màu xanh đỏ rực rỡ, áo mũ tuồng lộng lẫy
xênh xang, biểu diễn múa võ cao cường, trong tiếng chiêng trống rộn
ràng, và nhiều khi cả tiếng la hét cổ vũ của người xem.
Bức tranh này vẽ: “ba con chó cắn bố Lý Toét”, có con trai Lý Toét đứng
ngoài xem, dơ tay múa chân reo hò: “A ha! Tam anh chiến nhất Bố!”
Thật là một câu dùng điển Tam Quốc “Tam anh chiến Lã Bố” để ví tuyệt
hay. Tuyệt hay, vì hai câu có cấu trúc hoàn toàn giống nhau, diễn tả hai
trận đánh hoàn toàn khác nhau. Do cách dùng hai nghĩa của chữ “Bố”: Bố
là tên của đại tướng nước Tầu: Lã Bố, mà “bố” cũng là bố của đứa con
đang đứng ngoài dơ chân muá tay reo hò.
Đọc câu điển Tam Quốc, ta chỉ cần thay chữ “Lã” bằng chữ “nhất” là biến
thành câu ví, câu reo cuả con Lý Toét: Chuyện chiến đấu hào hùng trong
sử Tầu biến thành chuyện Lý Toét la ó chống chọi với ba con chó dữ. Nó
làm người xem tranh cảm được ngay, và cũng đau nhói lòng ngay, vì thấy
đứa con trai reo hò vui thích trước sự nguy khốn của bố mình. Đó là:
– Con vô cảm, vô ý thức hay còn quá trẻ dại không biết rằng bố đang lâm
nguy bởi ba con chó dữ tấn công? Cùng lúc, nó nhắc người xem tranh:
Lý Toét có mặt trên Phong Hóa từ số đầu tới nay, Lý Toét tượng trưng cho Phong Hóa:
– Độc giả có biết rằng báo Phong Hóa đang trong cơn khốn khó, có cơ nguy
bị Pháp đóng cửa, rút giấy phép vĩnh viễn bất cứ lúc nào? (như rất
nhiều báo thời đó, không được giải thích tại sao).
Lý Toét, nhân vật thấm đẫm đặc tính dân tộc, những xấu tốt của vốn cổ, tượng trưng cho đất nước lúc này:
– Quốc dân có biết rằng đất nước mất chủ quyền, đang bốn bề thọ địch?
(‘Địch” là thực dân Pháp, là sự ngu tối, dốt nát của đại đa số dân
chúng, là sự chia rẽ cuả các đảng phái trong nước, nguy cơ nội chiến…)
Trong cảnh tình như thế, bố Lý Toét làm sao sống nổi! Than ôi! Đó cũng
là tiếng kêu cứu của Phong Hóa! Trùng hợp hay chính là lý do (?), đúng
lúc đó thực dân đóng cửa báo. Báo Phong Hóa bị chết ngay sau số 190 này
(05/06/1936).
May thay, báo Ngày Nay hãy còn giấy phép, (Ngày Nay là báo dự phòng của
TLVĐ, do Nguyễn Tường Cẩm, anh ruột Nguyễn Tường Tam, một công chức,
đứng tên. NN số 1 ra ngày 30/01/1935) nên Tự Lực Văn Đoàn còn hoạt động
thêm được mấy năm nữa. Lý Toét còn tiếp tục sống, tiếp tục kể chuyện đời
trên báo.
Phải đến thời Mặt Trận Bình Dân cầm quyền ở Pháp, những lời mong cầu tự
do, bỏ kiểm duyệt, bớt thuế… mới được viết ra một cách công khai. Những
tưởng Mặt Trận Bình Dân thuộc tả phái, sẽ nới lỏng chế độ bảo hộ. Mà
không! Tất cả những lời hứa chỉ là bánh vẽ, báo chí vẫn chịu chế độ cũ,
bởi vì bên Pháp vẫn còn Bộ Thuộc Địa, thực hành chủ trương khai thác
thuộc địa, phục vụ Mẫu Quốc. Sau này, dù trong thế chiến thứ II, dù năm
1939 Paris đã bị Đức Quốc Xã chiếm đóng, chế độ Bảo Hộ ở Bắc Kỳ vẫn rất
khắt khe: Báo Ngày Nay bị đóng cửa vĩnh viễn năm 1940, người viết báo bị
bắt bỏ tù (Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí bị giam, bị tra tấn dã
man từ 1941 tới 1943, tại Vụ Bản, Hoà Bình (5)).
Trong bức tranh Mẫu Quốc (nước mẹ), dưới đây, Ngày Nay số 110, 1936,
nhân Uỷ Ban điều tra do Pháp gửi sang Việt Nam sắp làm xong công việc.
Hy vọng của quốc dân là: Chắc sẽ có kết quả tốt? Họa sĩ Rigt Nguyễn Gia
Trí viết một câu chửi đổng:- Ồ, trông mong… nước mẹ gì!
Thế rồi tới giữa năm 1940, báo Ngày Nay cũng bị đóng cửa rút giấy phép.
Sau một vài cố gắng cuả Khái Hưng, Thạch Lam ra báo, sách… đều chết yểu, các thành viên phân tán, văn đoàn Tự Lực tan đàn sẻ nghé: Người chết vì bệnh, người bị Pháp bắt bỏ tù, an trí, người trốn sang Tầu làm cách mạng, người đi xa lánh nạn, người quay sang kịch… Chỉ còn nhà xuất bản Đời Nay sống lay lắt, in sách bán… Tới tháng 4-1945 còn xuất bản cuốn thơ Hoa Niên của Tế Hanh, (Tế Hanh cùng Anh Thơ được giải thưởng thơ của TLVĐ năm 1939, năm cuối còn có phát thưởng, trước khi báo NN đóng cửa). Hoa Niên chính là cuốn sách cuối của Đời Nay.
Và cuối cùng, tới tháng 5-1945 báo Ngày Nay Kỷ Nguyên Mới ra đời, Hoàng Đạo phụ trách mục “Kiểm điểm chính trường Việt Nam” (Hồ Hữu Tường, Nguyễn Tường Long, nhà chính trị, Tạp chí Văn, số 107). Báo ra được 16 số là hết. Tới giữa năm 1946, nhà in được mang bán, chia tiền cho các thành viên.
Từ đó tới nay, chúng ta chưa bao giờ thấy lại một văn đoàn, một nhóm văn nghệ sĩ tài năng như thế, chung sức làm được một kho tàng văn hóa thành công như thế nữa. Tất cả chỉ còn là bóng con chim nhạn bay qua ngang trời…
Tôi còn nhớ khi còn rất nhỏ, được biết hai nhân vật huyền thoại Lý Xã qua một bài hát do các chị dạy truyền khẩu, trước khi đi học chữ, để có thể đọc được tiểu thuyết của TLVĐ (Mà phải đọc lén, vì gia đình tôi cấm con gái đọc tiểu thuyết). Đó là bài hát sau đây, tuy tôi thuộc nằm lòng nhưng không biết tác giả là ai, phải hay không phải là người của Văn Đoàn Tự Lực:
Ông Lý Toét mà cắp cái ô Đi ra phố gặp lúc mưa to Có bác Xã Xệ mà muốn đi nhờ Tay thì vời vời miệng thét bô bô; – Này bác Lý, thủng nhĩ hay sao? Gọi như thế mà chẳng coi sao Giá có cút rượu thì đến chơi liền Đi nhờ một tí mặt cứ vênh vênh! – Này bác Xã thật rõ lôi thôi Còn non nước còn bác với tôi, Ô tôi năng cụp mà bất năng xòe Năng dựa đầu hè mà bất năng che!
Phạm Thảo Nguyên
—————————————————————————————————–
Thư mục:
(1) Nguyễn Mạnh Hùng, Đi tìm gia phả hai nhân vật ảo Lý Toét và Xã Xệ, Đại học Hồng Bàng.
(2) Georges Mignon, Nụ Cười ở Cõi Tân Á, L’Asie Nouvelle. Phong Hóa, số 109,trang 9.
(3) George Dutton, Lý Toét in the City: Coming to Terms with the Modern in 1930s Vietnam, Journal of Vietnamese Studies, vol 2, Issue 1, pps 80-108.
(4) Hoàng Đạo, Trả Lời Tân Xã Hội, Ngày Nay số 30, 18/10/1936.
(5) Theo Nguyễn Lân, con Hoàng Đạo: Hoàng Đạo bị Pháp bắt cùng Nguyễn Gia Trí, giam ở Vụ Bản. Bà Hoàng Đạo đi thăm, mang về một chiếc áo đầy máu. Khi được tha về, ông bị đau tim nặng.
6 – Vu Gia, Hoàng Đạo, nhà báo, nhà văn, nxb Văn Hóa, Hà Nội, 1997.
7- Lý Trực Dũng, Lý Toét Xã Xệ hai siêu sao của biếm họa Việt Nam, Thể ThaoVăn Hóa 5/7/2008.
8- Lý Trực Dũng, Sức sống của Lý Toét Xã Xệ, báo Thể Thao Văn Hóa 7/7/2008.
9- Lý Trực Dũng, Lý Toét Xã Xệ: Nạn nhân hay chứng nhân, báoThể Thao Văn Hóa 8/7/2008.
10- Tú Mỡ, Tiếng Cười, nxb Hội nhà văn, 1993.