“Ðánh cho để dài tóc,
Đánh cho để đen răng,… Vua Quang Trung (1753-1792)
Phan Văn Song
Tuần qua, chúng ta đã đi một vòng kiểm điểm những điểm đen, những bế tắc của một thế giới đầy biến động. Ngoài những khủng hoảng, rất đời sống hằng ngày do tình hình kinh tế, thương mại, chứng khoán… và …do nhóm truyền thông báo chí tư bản rao truyền rầm rộ, còn riêng những khủng hoảng thật sự của đời sống thật sự của người dân bình thường,…thì không được một ai đoái hoài đến. Một cách vô tình, thế giới ngày nay, tạo một khoản cách giai cấp càng ngày càng to lớn giữa giai cấp giàu có và giai cấp nghèo khó. Những quốc gia tiến triển là những quốc gia có nhiều từng lớp giai cấp trung lưu. Càng tiến triển, giai cấp trung lưu lại càng có nhiều thành phần, có từng lớp, từng lớp một – par couche… Trái lại, các quốc gia càng kém phát triển, thành phần trung lưu càng có ít từng lớp, và có nơi hầu như không có. Cái lạ lùng là những quốc gia càng tự phong chế độ mình là dân chủ, là của nhân dân, là xã hội chủ nghĩa, lại là những quốc gia chỉ gồm có hai giai cấp rất rõ ràng, giai cấp thống trị gồm thành phần thống trị – nomenklatura – và các phần tử vệ tinh… gia nhơn, đảng viên, đệ tử, với một hệ thống quân đội cảnh sát công an bảo vệ… sống bám chung quanh, hưởng hơi hám, cơm thừa canh cặn của gia cấp thống trị… và giai cấp bị trị, người dân…
Tại những quốc gia nói trên, cũng một cách lạ lùng, những từ ngữ như Dân Chủ Nhơn Quyền đều được cổ vũ liên tục, được nói lên như những khẩu hiệu. Nhưng những từ ấy chỉ nói riêng, dùng riêng cho những đệ tử của họ. Như thuở xưa, thời Đế quốc Lamã người Lamã có từ ngữ citoyen – citizen đặt cho người “công dân” Lamã. Dịch “citoyen” thành “công dân” là một cái dịch gượng ép. Citoyen, nghĩa là người “ở cité Roma – cư dân Lamã” thôi. Nhưng thời bấy giờ, chỉ có người Lamã, sanh ở Lamã, con của cha mẹ Lamã mới là citoyen Lamã. Còn tất cả không được gọi là citoyen, là một giai cấp thứ dân, nói tóm lại chỉ có citoyen Lamã và đầy tớ! Cũng như ngày nay ở Việt Nam chỉ có đảng viên cùng đồng bọn và nhơn dân ô sin đầy tớ!
Nói như vậy nếu, ngày nay chúng ta thử lấy điển hình một quốc gia như Việt Nam, như Bắc Hàn, như Algérie, như Vénézuela, hay ngay cả Liên Bang Nga, hay Tàu Cộng ngay nay… Ai là citoyen, ai là không citoyen… thì rất rõ ràng. Con cháu đảng viên – citoyen Việt Nam ra vào Việt Nam như đi chợ. Mỗi cuối tuần đi Bangkok nhảy đầm, đi Singapore đánh bạc… Thậm chí đi ra ngoại quốc chữa bệnh,… còn người dân Việt bình thường, thứ dân?…
Do đó, định nghĩa Dân chủ đã là một cái khó rồi. Thế nào là Dân Chủ? Áp dụng lại càng khó hơn! Để dẫn chứng, cá nhơn chúng tôi xin kể chuyện một người kháng chiến Syrien – hình như tôi đã kể rồi! Anh người Syrien nầy, một chiến sĩ Dân Chủ (xin phép viết hoa) đấu tranh chống nhà độc tài Assad, mất một chơn, được một NGO pháp giúp đỡ đem qua Pháp chửa bệnh và tỵ nạn, trọ tại nhà một giáo hữu Tin lành chúng tôi. Tôi đến thăm, ủy lạo. Anh ta sau một thời gian làm quen với cá nhơn chúng tôi, mạnh miệng hỏi: “Xin phép anh vì anh không phải người Pháp, nhờ anh trả lời cho chúng tôi hiểu quan niệm Dân Chủ ở Pháp. Dân Chủ gì mà ở nhà trọ nấy, bà vợ của ông chủ nhà, ngồi ăn chung bàn với ông chồng và nói leo… Dân chủ gì mà người Pháp cho người đồng tình luyến ái lấy nhau?” Chúng tôi không làm phiền quý thân hữu cái trả lời của chúng tôi. Chúng tôi chỉ muốn dẫn chứng qua câu chuyện nầy những cái thắc mắc – thật tình của anh người Syrien nói trên. Như vậy, quan niệm Dân Chủ còn tùy vào văn hóa nữa. Bao nhiêu bạn bè người Việt chúng tôi, ngày ra đường đấu tranh Dân Chủ cùng chúng tôi cho Việt nam, tối về nhà lại rất chồng chúa vợ tôi, ngồirung đùi, uống ladze, đọc báo, chờ vợ nấu cơm, buộc con im mồm… Khi tôi có ý kiến, hay giải bày hơn thiệt, thường được trả lời đấy là văn hóa Khổng Mạnh, là Lễ Nghĩa ông bà Việt Nam. Tôi không dám ý kiến bàn luận, chỉ xin phép được trình bày với quý vị thôi. Quý thân hữu tùy suy luận, cùng ý kiến, chúng tôi nhờ, không cùng ý kiến, chúng tôi đành chịu vậy… nhưng ta phải thông cảm tại sao ngày nay tại Việt Nam vẫn có những trường hợp chậm tiến, chướng tai gai mắt như vậy đó…
Tin giờ chót: Đêm ngày thứ Hai 11 tháng Ba, được tin Bouteflika đã bỏ ý định ứng cử lần thứ năm (Nhưng vẫn không từ nhiệm Tổng Thống đương nhiệm). Tìếng nói của Nhơn Dân Algérie – Nhơn quyền và Tiếng nói của Nhơn Dân Algérie Dân Chủ đã hạ Độc tài, Đảng trị 1-0. Hãy chờ hiệp 2: Bouteflika từ nhiệm, mở bầu cử tự do với các ứng cử tất cả các đảng phải kể cả đối lập!
1 – Nhơn Quyền trên thế giới ngày nay:
“Xưa thật là xưa, nhớ mấy cho vừa…” vào cuối tháng 6 năm 1993, nhằm cải thiện hiệu năng hoạt động của Liên hiệp Quốc về việc vận động và bảo vệ Nhơn Quyền trên thế giới, và cũng để kỷ niệm 50 năm bản Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhơn Quyền, một Hội nghị Nhơn Quyền thế giới kỳ ll được tổ chức tại Vienna (Áo quốc). Hội nghị thảo luận về những tiến bộ đạt được về mặt thực hiện từ năm 1948 và kiểm điểm những khó khăn, trở ngại gặp phải, đồng thời đưa ra những khuyến cáo nhằm tăng cường sự hợp tác quốc tế đúng theo Hiến chương và những văn kiện quốc tế về Nhơn quyền.
Từ đó đến nay, hai mươi hai năm qua, những vi phạm Nhơn Quyền nghiêm trọng vẫn thường xuyên xãy ra khắp nơi trên thế giới, nói thì nhiều nhưng ghi nhận chẳng bao nhiêu. Vài thành quả được ghi nhận với lắm ồn ào “dao to búa lớn” với vài vụ điển hình, như truy tố Pinochet, truy tố Khờ-me đỏ, Kosovo (với sự can thiệp của NATO), điều tra và truy tố các can phạm sự sát hại người dân Hutus ở Rwanda… Những sự kiện này đã làm thay đổi một phần nào mối quan hệ giữa những giá trị con người với chủ quyền quốc gia. Nhưng vẫn còn bao nhiêu vụ vẫn – vô tình hay cố ý – bị bỏ quên… vài bất công, như trong cuộc chiến Việt Nam ta, la làng truy tố Trung Úy Calley và Mỹ Lai, nhưng lại bỏ quên thảm sát Mậu Thân Huế là một ví dụ … Xây dựng công phu một Toà Án Nuremberg xử bọn Đức Quốc Xã? Nhưng bỏ quên những nạn nhơn các Goulag Sô-Viết hay các Laogay Trung Cộng…
Và Việt Nam:
Trong lúc đó, ở Việt Nam, Nhơn Quyền vẫn bị vi phạm, vì hệ thống do chế độ cộng sản vẫn rập khuôn theo quan niệm Nhơn Quyền của người Mác-Lê. Tình trạng này sẽ còn kéo dài khi mà quyền “dân tộc tự quyết” vẫn chưa thực hiện được ở Việt Nam để mỗi công dân được quyền hành sử những quyền làm con người căn bản của mình (quyền tự do phát biểu, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do thương doanh, tự do thờ tự, tôn giáo…)
Đây là những quyền sở hữu của con người. Nhà nước không thể tước đoạt mà không thể ban phát cho con người. Cũng như TỰ DO: Nhà nước không tạo ra Tự Do cho dân chúng, mà Nhà nước chỉ nhìn nhận nó, và nhìn nhận bằng cách chính Nhà nước tự giới hạn mình.
Ngày nay cổ vũ Nhơn Quyền cho Việt Nam có phải là cách tranh đấu hữu hiệu không? và tranh đấu đem lại Nhơn Quyền cho Việt Nam có đi ngược lại những đặc thù văn hóa địa phương không?
2 – Nhơn Quyền là những quyền tự nhiên:
a – Nhơn Quyền trong Văn hóa Việt Nam:
Trong ngôn ngữ chánh trị Việt Nam trước đây không có từ ngữ Nhơn Quyền, Dân chủ. Mãi đến thế kỷ XIX, những từ ngữ ấy, từ Tây phương du nhập qua Nhựt Bổn để rồi sang Việt Nam. Nói như thế, không có nghĩa rằng ở Việt Namvào những thời kỳấy, người dân Việt Nam không được sống xứng đáng với địa vị con người và những quyền lợi mình không được chánh quyền tôn trọng. Xã hội chánh trị Việt Nam dưới thời quân chủ được thiết lập trên ý niệm nền tảng là Nhà Vua ngự trị trên cao, còn thường dân là thứ dân ở nấc thang thấp kém nhứt, mỗi người phải có bổn phận chu toàn trong vị thứ của mình.
Vậy thì, khi nhà vua làm tròn bổn phận của mình thì tự nhiên toàn dân hưởng được phúc lợi, đại khái phù hợp với những quyền mà ngày nay chúng ta gọi là Nhơn Quyền. Như vậy, người dân Việt Nam ngày xưa tuy không biết ý niệm về Nhơn Quyền như những thứ quyền bất khả thời tiêu của con người, vẫn có thể hưởng được ít hay nhiều do có làm tròn bổn phận hay không? Khổng tử xưa đã định nghĩa Vị Anh Quân là người “Tiên thiên hạ chi ưu; Hâu thiên hạ chi lạc”. Nhà vua biết lo lắng cho dân được ấm no hạnh phúc và chỉ biết vui sau khi dân mình được hưởng cái vui cái sướng, đó là quan niệm Nhơn Quyền của người dân Việt Nam nói riêng và của Văn hóa Á đông nói chung vậy.
Quan niệm Á đông về bổn phận Nhà Vua gọi là Thiên mệnh. Đối lại dân chúng là nền tảng quốc gia là Dân bản. Khi nền tảng vững chắc thì quốc gia yên ổn, bền vững, xã hội an vui, người người hạnh phúc.
Trong quan hệ giữa thiên mệnh và dân bản, nhà vua có bổn phận phải hết lòng chăm lo đời sống cho dân chúng. Vì nhận lãnh thiên mệnh nên nhà Vua bị Trời kiểm soát việc làm của mình qua thành quả đời sống của dân chúng của mình như sung sướng hay cơ cực. Ý dân là ý Trời. Nếu nhà Vua không làm chu tròn bổn phận mình đối với dân, nghĩa là không chu toàn thiên mệnh, trái lại nhà Vua còn tàn bạo đối với dân chúng thì Trời cũng thể theo ý dân mà thu hồi thiên mệnh. Thực tế, dân chúng sẽ nổi dậy truất phế nhà Vua để thiết lập triều đại khác cho hợp với lòng dân. Trong suốt dòng lịch sử Việt Nam, phần lớn các vị Vua đều cố gắng làm tròn bổn phận đối với thần dân.
Những người dân của những triều đại ấy hưởng được những quyền mà chúng ta tạm gọi là quyền tự nhiên của con người.
b – Nhơn quyền theo quan niệm người Việt Cộng Sản:
Việt Nam ngày nay bị cai trị bởi một chế độ cộng sản, Hồ Chí Minh và những người cộng sản hành sử khuôn theo ý thức hệ Mác-Lê. Nền tảng của chủ thuyết Mác-Lê là vật chất và duy vật biện chứng.
Theo quan niệm duy vật họ chối bỏ mọi giá trị tinh thần, như luân lý, đạo đức. Biện chứng, người cộng sản không chấp nhận có những giá trị vĩnh cữu, thường tại… Với quan niệm căn bản ấy, người cộng sản Mác-Lê từ khước những quyền tự nhiên bất khả nhượng của con người, như quyền sống, quyền tự do, quyền an ninh thân thể, quyền tự do tinh thần, quyền tư hữu… Theo người cộng sản: “Nhơn quyền chỉ là phản ảnh của những quyền lợi về kinh tế, đó là quyền lực của giai cấp thống trị ” (Jean Touchard, L’histoire des idées politiques, Paris 1975)
Từ quan niệm này, người cộng sản phê bình bản Tuyên Ngôn Nhơn Quyền 1789 của Pháp, cho đó là:“thành quả của thắng lợi của giai cấp tư sản đối với giai cấp quý tộc, vũ khí để bảo vệ quyền lợi và củng cố uy quyền của họ mà thôi. Nhơn quyền chỉ dành cho những người có của, có tiền. Đối với những người nghèo khổ, Nhơn quyền không có lợi ích gì hết!”.Đi xa hơn nữa trong lý luận, người cộng sản cho rằng:”những quyền tự do cũng chỉ là thứ “tự do hình thức” hoàn toàn không chứa đựng một “nội dung thực tế”, “cụ thể” (Jean Rivero, Les droits de l’homme, Paris 1978).Đối với người cộng sản, Nhơn quyền chỉ có ý nghĩa thực tế trong một xã hội không giai cấp và không có chiếm hữu trong những phương tiện không sản xuất. Nên chỉ có chế độ cộng sản mới đem lại cho mọi người tự do thật sự, nghĩa là tự do có nội dung cụ thể, chớ không phải thứ tự do hình thức. (Jean Rivero, nt)
Muốn rõ hơn, ta thử đọc lại lời Các Mác viết về Nhơn Quyền: “Chúng ta hãy xem những thứ cho là Nhơn Quyền trong nguyên trạng, của những người đã khám phá ra, đó là nhừng người Bắc Mỹ và Pháp. Chúng ta sẽ nhận thấy ngay Nhơn Quyền, ngược lại với Dân Quyền, không gì khác hơn là thành phần thuộc xã hội tư sản, nghĩa là của con người ích kỷ, của con người tách rời khỏi con người của quần chúng. Quyền Tự do của con người không được thiết lập trên mối quan hệ giữa người với người, mà trái lại, trên sự tách rời giữa người với người. Đúng hơn đó là quyền chia cách giữa con người với nhau.” (Morange, Droits de l’homme et philosophie, Paris 1983).
Đối với người cộng sản, ta không thể nói chuyện về Nhơn Quyền với họ được. Bởi vì họ cho Nhơn Quyền chỉ là thứ quyền “cho là”, “gọi là” chớ không có thật. Thế mà người cộng sản khi tranh đấu trong một chế độ dân chủ, chẳng những lại được thụ hưởng, được bảo vệ bởi những quyền ấy, họ thậm chí, lại nhơn danh những quyền ấy để phát động các cuộc tranh đấu, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn chỉ là quyền lợi của chuyên chế vô sản, và, cộng sản chủ nghĩa.
3 – Nhơn Quyền, điều kiện tiên quyết để Phát triển và Dân chủ:
Trong xã hội ngày nay, mọi cá nhơn đều hưởng được những quyền lợi và những quyền lợi này được luật pháp bảo vệ. Nếu luật pháp không bảo vệ thì những thứ quyền lợi ấy sẽ không tồn tại.
Trong truyền thống Văn hóa Việt Nam lại có một loại quyền gọi là quyền tự nhiên, những quyền này thuộc về mỗi cá nhơn con người; có là những quyền căn bản. Nếu thiếu thì xã hội con người không thể vận hành được.
Nguyên tắc Dân chủ chỉ có giá trị trong những giới hạn của những quyền tự nhiên của con người.
Những quyền tự nhiên để được hoàn hảo, PHẢI được bảo đảm, PHẢI được đặt trong mối quan hệ với xã hội chánh trị, như sự tôn trọng luật pháp do xã hội chánh trị đặt ra. Dĩ nhiên mục đích là nhằm bảo đảm và bảo vệ những quyền tự nhiên.
Thế là mối quan hệ ấy mặc nhiên trở thành một khế ước giữa dân chúng và Nhà Nước.
Đã nói đến Khế ước là nói đến vấn đề hỗ tương, lưởng lợi (synallagmatique -Win Win), đôi bên đều có những quyền lợi, nhưng đôi bên đều phải có những bổn phận, tương quan với nhau. Những cá nhơn bị bắt buộc phải tuân hành mệnh lệnh của chánh quyền nhưng lại được chánh quyền bảo vệ đời sống, bảo vệ sự tự do, quyền sở hữu…còn chánh quyền khi ban hành luật lệ để bảo đảm an ninh và bảo vệ những quyền tự nhiên, chánh quyền chỉ làm một bổn phận giữ trật tự cho một sự hài hòa ổn định chánh trị.
Nếu một bên nào không thi hành nghiêm chỉnh bổn phận của mình thì sự hài hòa sẽ mất cân bằng. Và từ đó sẽ dẫn đến sự mất ổn định.
Nếu chánh quyền trở thành hung bạo, độc đóan thì dân chúng sẽ không còn nghĩa vụ phải tuân phục chánh quyền nữa. Khế ước hai bên sẽ bị huỷ bỏ.
Chỉ có khế ước và sự tôn trọng khế ước ấy mới đem lại cho chánh quyền sự chánh thống, hay chánh nghĩa.
Nói như vậy, khi một Nhà Nước đã xóa bỏ bổn phận của mình, không làm đúng bổn phận của mình, thậm chí còn dùng bạo quyền để tước đoạt những quyền tự nhiên của dân chúng của mình, thì dân chúng có quyền dùng quyền lực nổi dậy (Thuyết của Jean de Salisbury, một triết gia, được Guy Haarscher trích dẫn trong La philosophie des droits de l’homme, Bruxelles 1993)
Phản ứng về phía dân chúng đối với bạo quyền là chánh đáng..Phản ứng này đưa vào hệ thống chánh thống hóa quyền lực để trở thành một thứ quyền bất khả nhượng.
Đó là quyền chống lại áp bức.
Kết luận:
Nhà đương quyền Cộng sản Việt Nam Hà nội lúc nào cũng vẫn viện dẫn sự ổn định chánh trị để phát triển, bởi Việt Nam là một nước đang phát triển, mà trù dập mọi đòi hỏi thực thi Nhơn Quyền.
Ngày nay, thuyết “dân chúng an ninh do quốc gia ổn định ” không còn giá trị nữa, mà trái lại, sự an ninh quốc gia phải được xoáy theo sự an ninh cùa toàn dân.
Chính sự an ninh của toàn dân mới mới là điểm quy chiếu. Quan niệm này đã làm thay đổi mọi tiêu chuẩn chánh trị của thế giới bởi nó không còn chấp nhận chủ quyền quốc gia như là cột trụ của bang giao quốc tế (Nhựt báo Le Monde, 22/5/1999, Lời tuyên bố của ông Ngoại trưởng Gia-Nã-Đại, Ông Lloyd Aworthy).
Sự đề cao và bảo vệ an ninh con người trước chánh quyền dẫn đến chấp thuận nguyên tắc sử dụng những biện pháp cưỡng bách, kể cả việc can thiệp quân sự như ở Nam Tư, Kosovo… Liên Hiệp Quốc đã có mặt ở mọi nơi khi tình hình an ninh quần chúng ở nơi ấy bị de dọa: Libéria, Rwanda, Cam-bốt-đia…
Tại sao những vùng có dân tộc thiểu số ở Việt Nam hiện đang bị đàn áp và mất an ninh không được bảo vệ bởi một thể chế quốc tế “phi quân sự”? Nghĩa là không có mặt của quân đội hay công an Nhà nước Việt Nam, đàn áp như hiện nay? Cho dân chúng những vùng ấy một tư cách tự quản lý và do một cơ chế quốc tế giám định? (Liên Hiệp Quốc, hay các đại diện thường dân, y tế, xã hội, hay quân sự của quốc tế, hay của vùng Đông-Nam-Á) để chờ một giải pháp chánh trị ôn hòa vừa có công bằng cho dân tộc thiểu số ấy vừa giử được chủ quyền cho đất nước, vừa giữ tránh nhà cầm quyền sỡ tại những hành động có tính cách xâm phạm Nhơn Quyền?
Tranh đấu cho Nhơn Quyền là thiết lập điểm quy chiếu có tính cách bắt buộc cho chánh quyền trong các hoạt động pháp chế trong nước hoặc ngoài nước, đối nội như đối ngoại. (Dominique Rousseau, Le Monde 16/7/1999).
Tranh đấu cho Nhơn Quyền là đặt lại nền tảng quyền quan hệ: tự do tư hữu, tự do cư trú, tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo, tự do phản kháng, dư luận, lập hội… đó là những quyền căn bản ràng buộc thân ái hài hòa chánh trị những con người trong xã hội với nhau.
Tranh đấu cho Nhơn Quyền có mặt ở Việt Nam chỉ là tranh đấu cho sự trở về với Văn hóa Dân tộc Việt Nam, trở về với những tập quán chánh trị của ông cha chúng ta, trở về với cái hài hòa nhân ái của nếp sống chánh trị của tiền nhơn.
Nhà vua thì “Tiên thiên hạ chi ưu, hậu thiên hạ chi lạc”.
Thứ dân thì “Quân Sư Phụ”.
Trên thuận dưới hòa. Khế ước “thiên mệnh” và “dân bản” hài hòa trong sự hòa hợp cân bằng những cái quyền tự nhiên và căn bản của mỗi cá nhơn con người, và bổn phận mỗi con người chúng ta đối với tập thể cộng đồng đại diện bởi nhà nước. Và ngược lại nghĩa vụ và bổn phận của nhà cầm quyền là bảo vệ và bảo đảm những quyền căn bản và tự nhiên của mỗi cá nhơn trong trật tự, an ninh của cộng đồng.
Nhơn Quyền Dân chủ là những giá trị toàn cầu, vượt trên những quyền lợi quốc gia.
Chánh trị Dân chủ phải được xây trên Nhơn Quyền.
Nhơn Quyền là điều kiện tiên quyết để Xây dựng và Phát triển Dân chủ.
Hồi Nhơn Sơn, tháng sáu 2015
Hiệu đính tháng ba 2019
Để Đóng Góp Đòi Hỏi Dân Chủ Nhơn Quyền cho Việt Nam
Phan Văn Song