Ngày 20 tháng 7 năm 2014 ghi dấu 60 năm hiệp định Geneve chia đôi đất nước, chúng tôi tổ chức kỷ niệm đêm giã từ Hà Nội. Có các chiến binh Việt Nam trong quân đội Mỹ về tham dự. Ca sĩ Ý Lan trình diễn những bài ca quê hương. Chúng tôi có dịp nhắc lại kỷ niệm từ ngày rất xa, khi còn là thiếu niên trong thời kháng chiến đứng sau cột đình làng Bình Hải, huyện Yên Mô nghe cô Thái Thanh rất nhỏ bé hát bài ca cho chương trình Bình Dân Học vụ. Lời ca thánh thót của thời thơ ấu mà vẫn còn nghe vang vọng tuổi hoa niên. Ai về chợ huyện Thanh Vân, Hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa?.Trải qua biết bao dâu bể. Ngày nay vẫn còn may mắn ngồi nghe con gái của cô Thái hát rằng: Quê hương tôi, có con sông đào xinh sắn.
Hôm nay, ngồi đọc lại bài viết cũ về chuyện còn sông Bến Hải đã trở thành câu chuyện 65 năm.
Tuổi cao niên già thêm 5 năm, nhưng lịch sử đất nước chia đôi trên căn bản vẫn không thay đổi.
Viết cho ngày 20 tháng 7 (1954-2019)
Đất nước bị chia cắt 54 quả thực là thảm họa, nhưng thống
nhất 75 là còn khốn nạn hơn. Để hoàn thành công cuộc gọi là “Giải
phóng miền Nam”, Việt Cộng đang phải trả nợ bằng cả núi sông. Vì câu
chuyện thời sự hôm nay, chúng ta cùng nhớ lại chuyện hôm qua. 65 năm trước cũng
vào ngày tháng này, người Việt di cư lần thứ nhất.
Tháng 7 năm 2019 có gợi nhớ cho người Việt tỵ nạn chúng ta một chút kỷ niệm nào
không? Cách đây 65 năm vào tháng 7 năm 1954, Hiệp Định Genève chia đôi đất
nước. Hôm nay, từ hơn nửa thế kỷ và một đại dương xa cách, xin có đôi lời ghi
lại. Trước hết là một số sử liệu, nhắc lại một lần vào cuối cuộc đời.
Tháng 9-1945, Nhật
đầu hàng Đồng Minh, Thế chiến thứ II chấm dứt chính thức trên mặt trận Thái
Bình Dương. Hồ Chí Minh lãnh đạo đảng cộng sản tuyên bố Việt Nam độc lập. Người
Pháp trở lại Đông Dương.
Ngày 19 tháng 12-1946, toàn quốc kháng chiến. Vào những ngày của mùa Thu
khói lửa năm xưa, tất cả thanh niên Việt Nam đều đứng lên đáp lời sông núi.
Phạm Duy đã viết lời ca như sau: Một mùa Thu năm qua, cách mạng tiến
ra đất Việt, cùng ngàn vạn thanh niên vung gươm phá xiềng. Bài ca này miền Nam đã dùng mở đầu
cho cuốn phim Chúng tôi muốn sống.
Vào những ngày đầu kháng chiến tôi mới
hơn 13 tuổi. Tuổi măng non thơ dại và hào hứng biết chừng nào. Vào thời gian
này, không ai biết gì về Quốc Cộng. Người ta nói rằng: Khi cách mạng mùa Thu,
anh 20 tuổi, anh không theo kháng chiến, anh không phải là người yêu nước. Và
tôi là cậu bé con của trường Cửa Bắc, Nam Định tản cư về Yên Mô, Ninh Bình cũng bắt đầu bài học yêu nước nồng
nàn.
Sau này mới học được những danh ngôn thần diệu khác. Khi chủ nghĩa cộng sản ra đời, anh 20 tuổi, không theo cộng sản, anh không có trái tim. Hai mươi năm sau, anh chưa bỏ cộng sản. Anh không có khối óc.
Hà Nội và Nam
Định tản cư, sinh viên học sinh gia nhập tự vệ thành mang dấu hiệu sao vàng
tham dự vào trung đoàn thủ đô. Trong Nam các thanh niên tiền phong Sài Gòn cầm
gậy tầm vông hợp đoàn chống Pháp.
Cho đến ngày nay, tất cả các vị cao niên 75 và 80 tuổi trở lên chắc hẳn còn nhớ
về mùa Thu khói lửa năm xưa của thời kỳ 1946. Rồi tiêu thổ kháng chiến, rồi tản
cư, rồi về Tề, còn nhớ biết bao nhiêu ngôn
ngữ đặc thù của cả một thời thơ ấu.
Ba năm sau, tháng 3-1949, vua Bảo Đại từ Hương Cảng trở về. Bình minh
của phe quốc gia mới bắt đầu nở hoa cay đắng trong vòng tay của quân đội Liên
Hiệp Pháp.
1950: Cuộc chiến vẫn tiếp tục trên toàn thể đất nước cho đến năm 1950. Một năm nhiều dữ kiện. Tháng giêng, Trung Cộng
công nhận cộng sản Việt Nam. Tháng 2, Hoa Kỳ công nhận Việt Nam Quốc Gia. Tháng
3, Mỹ bắt đầu viện trợ cho Pháp tại Đông Dương. Tháng 6, toán cố vấn Mỹ đầu
tiên đến Việt Nam.
Rồi đến năm 1954 định mệnh. Tháng 5-1954, Điện Biên Phủ thất thủ, trong số binh sĩ
tham chiến có phân nửa là lính quốc gia Việt Nam cùng chịu chung phần số hy
sinh và thân phận tù binh. Hội nghị Genève về Đông Dương khai mạc. Tháng
6-1954, ông Ngô Đình Diệm từ Mỹ về nước nhận chức thủ tướng. Tháng 7-1954,
Genève quyết định chia đôi đất nước tại vĩ tuyến 17, trên con sông Bến Hải giữa
nhịp cầu Hiền Lương. Và cái ngày định mệnh của cả dân tộc là ngày 20 tháng
7-1954. Anh, Pháp, Tàu v.v… ký vào hiệp ước cùng với phía cộng sản Việt Nam.
Hoa Kỳ và Việt Nam quốc gia không ký. Thủ tướng Pháp đương thời hứa với quốc
dân là hiệp định phải ký xong nội ngày 20 tháng 7-1954. Họp bàn đến nửa đêm
chưa xong. Đồng hồ phòng nghị hội cho đứng chết lúc 12 giờ khuya. Tiếp tục họp
đến sáng hôm sau. Ký xong rồi cho đồng hồ chạy lại. Ngoại trưởng Việt Nam là cụ
Trần Văn Đỗ khóc vì đất nước chia đôi ngay tại hội nghị. Lê Duẩn chỉ huy cộng
sản tại miền Nam, đang trên đường ra Bắc chợt nghe tin đình chiến bèn quay trở
lại để tiếp tục lãnh đạo công cuộc giải phóng về sau. Từ Hà Nội một số sĩ quan
Quốc Gia Việt Nam cùng sĩ quan Pháp tham dự hội nghị Trung Giá để quy định việc
đình chiến. Các đơn vị Pháp và tiểu đoàn khinh quân Việt Nam âm thầm rút khỏi
Bùi Chu, Phát Diệm, Thanh Hóa, Nam Định để lại sự hoảng loạn đau thương cho
nhiều giáo khu Việt Nam tự trị.
Tại miền Bắc, Pháp và phe quốc gia có thời hạn tập trung 80 ngày tại Hà Nội,
100 ngày ở Hải Dương và 300 ngày tại Hải Phòng. Tại miền Nam, bộ đội tập kết tại
Hàm Tân 80 ngày, Bình Định 100 ngày và Cà Mau 300 ngày.
Ngày nay bao nhiêu người trong chúng ta còn nhớ đến thời kỳ tập kết ở miền Nam
và di cư của miền Bắc. Bộ đội miền Nam trước khi ra đi đã phát động chiến dịch
gài người ở lại nằm vùng và phong trào lập gia đình ồ ạt để hẹn ngày trở lại
hai năm sau hiệp thương và tuyển cử. Trung úy Giao Chỉ tham dự hành quân Tự Do tiếp thu Cà Mau thấy
người cộng sản tập kết chào nhau với bàn tay xòe hai ngón hẹn gặp lại sau hai
năm, kèm theo khẩu hiệu: Ra đi là chiến thắng, ở lại là vinh quang. Kháng chiến
miền Nam ra Bắc để lại những người đàn bà mang bầu trong thôn xóm và súng đạn
chôn sau vườn.
Trong khi đó ở miền Bắc cộng sản cố sức cản đường không cho lính quốc gia di
tản và ngăn chặn cuộc di cư vĩ đại từ tháng 8-1954. Nhưng phe Quốc Gia vẫn có
đủ một triệu người ra đi. Trung úy Vũ Đức Nghiêm, tốt nghiệp khóa 1 Nam Định đã
di cư vào Nam cùng đơn vị và gia đình lúc ông hơn 20 tuổi. Từ Phát Diệm, ông đi
cùng Tiểu đoàn Khinh quân 711 về Hải Dương rồi rút về miền Nam. Đại úy Lê Kim
Ngô di tản trường Công Binh từ Bắc vào Nha Trang và tham dự hành quân tiếp thu
Bình Định. Cả hai ông Vũ Đức Nghiêm và Lê Kim Ngô về sau đều có dịp trở về đất
Bắc trong lao tù cộng sản trước khi qua định cư tại Hoa Kỳ.
Cũng trong đợt di cư theo gia đình công giáo, thanh niên Phạm Huấn 17 tuổi còn
nhớ mãi về Hà Nội của tuổi hoa niên. Sau khi ký hiệp ước Paris, thiếu tá VNCH
Phạm Huấn có dịp trở về trong phái đoàn chính thức để viết nên tác phẩm “Một
ngày tại Hà Nội” vào năm 1973. Sau đó ông Phạm Huấn lại một lần nữa từ biệt Sài
Gòn năm 1975. Ngày 7 tháng 7-2004, tôi và đại tá thiết giáp Hà Mai Việt vào
thăm Phạm Huấn tại Nursing Home của bác sĩ Ngãi ở khu Tully, San Jose. Sinh năm
1937, người thiếu niên Hà Nội trở thành sĩ quan trẻ trung của Sài Gòn vẫn còn
là vị cao niên trẻ nhất của Nursing Home. “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm.” Phạm Huấn nói rằng nếu có ngày các ông lấy
lại được Sài Gòn thì tôi cũng sẽ chơi một chuyến xe lăn về quê cũ. Ông qua đời
tại San Jose và chưa một lần trở lại Việt Nam. Nhưng từ tháng 7-1954 cho tới
tháng 7-2019 ngày tháng cũng xa rồi mà mộng ước cũng xa rồi. Phạm Huấn và nhà
thơ Hoàng Anh Tuấn đều lần lượt ra đi từ San Jose bỏ cả mưa Sài gòn lẫn mưa
Hà Nội. Cuối tháng 5-2014, Hà Mai Việt trở lại San Jose ra mắt tác phẩm Cỗi
rễ cuộc chiến Việt Nam, khởi sự từ miền Bắc. Chẳng biết còn ai nhớ được nguồn
cơn.
Năm 1954, có cô bé 15 tuổi lên máy bay một mình đi theo gia đình người bạn để
vào Nam tìm tự do. Mồ côi mẹ, cha ở lại đi tìm con trai rồi kẹt luôn. Cô bé tên
là Nguyễn Thị Chinh và sau này chuyến đi đã đem đến cho miền Nam một đệ nhất
minh tinh gọi là Kiều Chinh. Chuyến đi của Kiều Chinh 1954 từ biệt Hà Nội đầy
nước mắt chia ly trong tình phụ tử. Năm 1975, Kiều Chinh lại một lần nữa từ biệt
Sài Gòn trong một chuyến bay trắc trở vòng thế giới giữa lúc thủ đô miền Nam
hấp hối.
Và cũng vào năm 1954, một cô bé 9 tuổi Nguyễn Thị Lệ Mai xuống tàu di cư vào
Nam. Sau này cô trở thành ca sĩ tiêu biểu của cuộc chiến lầm than, một đời lưu
vong trong một kiếp trầm luân. Tên của người ca sĩ 50 năm hát rong trên khắp
địa cầu là Khánh Ly. Năm vừa qua cô về hát lần đầu trên sân khấu Hà Nội. Trải
qua 50 năm là biểu tượng chống Cộng bằng ca từ hải ngoại, ngày nay cô đứng hát
tình ca cho những khán giả chưa từng quen biết nhưng hết mực yêu thương.
Và cùng với Vũ Đức Nghiêm, Lê Kim Ngô, Phạm Huấn, Kiều Chinh, Lệ Mai còn có Bùi
Đức Lạc cũng là thành phần Bắc Kỳ di cư đến tạm trú ở khu Phú Thọ Lều để đến 75
thì trở thành người di tản mang màu áo pháo binh Dù.
Năm 1972 trong nước mắt Hạ Lào, Bùi Đức Lạc nghe Khánh Ly nức nở, đã nói rằng
trận liệt mất đường về không phải vì Mỹ bỏ mà tại vì nhạc Trịnh Công Sơn.
Một người khác gốc Phát Diệm đã sớm trở thành dân di cư Hố Nai rồi chuyển qua
vượt biên với một vợ 9 con tiếp tục bình tĩnh làm báo hàng ngày tại San Jose.
Đó là Ký Còm – Vũ Bình Nghi. Tại sao miền Bắc lại di cư tỵ nạn? Tại sao miền
Nam lại di tản vượt biên? Truyền thống của dân Việt là muôn đời sống với lũy
tre xanh, với mồ mả tổ tiên, với làng xóm. Vạn bất đắc dĩ phải ra đi mang tiếng
tha hương cầu thực nhưng rồi vài năm lại trở về. Quốc văn giáo khoa thư thủa
nhỏ đã ghi rằng chỉ có chốn quê hương là đẹp hơn cả.
Trung úy Phan Lạc Tuyên khi tham dự hành quân tiếp thu tại Bình Định đã viết
nên bài nhạc bất hủ. Anh về qua xóm nhỏ, em chờ dưới bóng dừa. Nắng chiều
lên mái tóc, tình quê hương đơn sơ. Nhưng chính tại miền quê đơn sơ ở
Bồng Sơn này suốt 20 năm chưa bao giờ yên tiếng súng.
Khi người cộng sản nổi dậy với một cuộc chiến toàn diện khốc liệt và quá độ đã
triệt tiêu hoàn toàn mọi sự hòa giải trong tình tự dân tộc. Đầu tiên là các dân
thành thị, trí thức, tiểu tư sản và tôn giáo phải bỏ Kháng Chiến về thành. Tiếp
theo là bỏ miền Bắc di cư vào miền Nam.
Năm 1954, người Bắc vào Nam đã đánh thức con rồng Sài Gòn tỉnh giấc. Qua những
khác biệt ban đầu rồi chuyển đến thời gian hòa hợp. Miền Nam bắt đầu khởi sắc
từ ẩm thực đến văn chương báo chí. Từ văn nghệ đến kinh doanh. Và sự hòa hợp
không hề có biên giới.
Đại úy Lê Công Danh, gốc công tử Cần Thơ đứng đón di cư ở bến nhà Rồng đã bế
luôn cô Bắc Kỳ nho nhỏ tóc demi garson về làm áp trại phu nhân.
Trung úy công binh Nghiêm Kế, dân chơi Hà Nội phải lên tận Biên Hòa xứ Bưởi
cưới cô Bé về làm chính thất, sống 20 năm ở các trại gia binh với 8 đứa con lần
lượt ra đời.
Trung úy Giao Chỉ đi chiến dịch Đinh Tiên Hoàng phải xuống tận Rạch Giá để rước
về người đẹp xứ Kiên Giang. Sau hơn 60 năm tình cũ, chàng mới nhận ra rằng
không phải chỉ Đà Lạt mới có hồ than thở, mà ở miền Hậu Giang cũng có khá
nhiều.
Những ông sĩ quan trẻ Bắc Kỳ xấp ngửa vào Sài Gòn đều đem về mỗi ông một cái hồ
than thở. Qua đến Hoa Kỳ nàng vẫn còn than thở qua Cell Phone…
Sau những đoạn trường 1954, thì tiếp đến câu chuyện tình Bắc duyên Nam trên mọi
lãnh vực. Tất cả cùng nhau xây dựng xong 2 nền Cộng Hòa với một đạo quân đẹp đẽ
biết chừng nào.
Cho đến năm 1975 và rồi đến tận ngày nay là 2019, người Việt vẫn tiếp tục bỏ
nước ra đi. Từ di tản đến vượt biên, vượt biển, đoàn tụ, HO, con lai.
Tại sao chúng ta lại rời bỏ quê hương?
Một lần đi là một lần vĩnh biệt.
Một lần đi là hết lối quay về.
Năm 1954, khi ra đi dân Bắc Kỳ di cư ít có hy vọng trở về chốn cũ. Bài ca “Hướng
về Hà Nội” được hát nỉ non suốt ngày đêm trên Radio. Cho đến khi chính
phủ sốt ruột phải ra lệnh cấm. Những cánh bưu thiếp liên lạc Bắc Nam rời rạc
được một vài tháng rồi cắt đứt sau hai năm xa cách.
Qua thập niên 60, Hà Nội mở đường dây Ông Cụ, đưa cán bộ vào Nam xây dựng hạ
tầng cơ sở và dựng nên cuộc chiến mà ngày nay chính cựu đảng viên cộng sản
Dương Thu Hương cũng nhận xét là một cuộc chiến sai lầm, hy sinh quá nhiều sinh
mạng và tiềm lực của cả hai miền đất nước.
Hôm
nay, nhân dịp ghi dấu 65 năm cuộc hiệp định Genève chia đôi đất nước, chúng ta
cùng suy ngẫm về dòng sinh mệnh đã đưa đẩy người Việt lưu vong. Sẽ không thể có
được câu trả lời coi như là chân lý cho một vấn nạn lịch sử.
Trong cuộc sống hàng ngày, biết bao nhiêu là điều bí ẩn không hề có đáp số. Tại
sao có người hạnh phúc và có người đau khổ? Tại sao có người bị hy sinh và có
người tồn tại? Tại sao có người thành công và có người thất bại? Những ngày
tháng lịch sử như 20 tháng 7, như 30 tháng 4 chỉ là những dấu ấn trong dòng
sinh mệnh của một dân tộc, của một cộng đồng. Đó là ngày của cay đắng nở hoa.
Mới đây các quốc gia văn minh nhất của nhân loại Tây phương kể cả Nga, Đức, Anh,
Pháp, Canada, Úc, Mỹ và nhiều nước khác cùng dự lễ kỷ niệm 70 năm đổ bộ
Normandie. Bây giờ chúng ta cũng là công dân của một xứ sở văn minh là Hoa Kỳ,
hãy cùng nhau nhớ về ngày lịch sử 20 tháng 7 của 65 năm về trước, ghi dấu lịch
sử là một cách hành xử của con người văn minh.
Một lần nữa xin nhắc lại 20 tháng 7-1954, 65 năm về trước hiệp định Genève chia
đôi đất nước. Một triệu người miền Bắc di cư vào Nam. Tại sao người Việt lại
rời bỏ quê hương? Câu hỏi đó dành cho quý vị.
Tiếp theo từ 30 tháng 4-1975 cho đến nay, trên hai triệu người Việt lần lượt ra
đi. Tại sao người Việt lại rời bỏ quê hương? Câu hỏi đó cũng dành cho quý vị.
Tại sao quý vị lại ra đi?
Tại sao lại trở về? Tại sao lại không trở về? Trở về quê hương. Câu hỏi cho cả
đời người. Câu hỏi cho cả một thế hệ. Điều này có đúng với người Việt lưu vong
hay không?
Nhà thơ Đỗ Trung Quân đã viết:
Quê hương, mỗi người có một
Như là chỉ một mẹ thôi…
Điều này có đúng với người Việt lưu vong hay không?
Hay là như Vũ Hoàng Chương đã than thở:
Chúng ta là đám người đầu thai nhầm thế kỷ
Quê hương ruồng bỏ, giống nòi khinh.
Có thực sự đau thương như vậy không?
Chúng ta ra đi đem theo quê hương, hay là chúng ta ra đi bỏ lại quê hương? Với
con đường an cư lạc nghiệp ở xứ này, phải chăng chúng ta đang sống hạnh phúc
với quê hương mới?
Giáo sư Elie Wiesel, người Mỹ gốc Do Thái sinh trưởng ở Romania, nạn nhân của
nạn diệt chủng Holocaust được cứu sống lúc 16 tuổi. Nhập tịch Hoa Kỳ năm 1963.
Đoạt giải Nobel về Hòa Bình năm 1986, Ông đã nói rằng: Nơi nào tôi sống có
tự do và hạnh phúc, nơi đó chính là quê hương.
Giao Chỉ – San Jose