Phải nói rằng trước khi du học Liên Xô, tôi có định kiến khá tiêu cực về người Mông Cổ. Định kiến này được hình thành qua lời kể của những người Việt từng du học ở Liên Xô. Họ thường kể rằng, so với Việt Nam, đầu óc sinh viên Mông Cổ không mấy sáng láng. rằng thủ đô Ulanbator khi họ đi qua sặc mùi thịt cừu.
Trong những năm học ở khoa Vật lý Moscow State University, một lần tôi đã chứng kiến một GS Nga khi hỏi thi đã trách một sinh viên Mông Cổ, rằng nếu ít khả năng thì không nên theo học ở trường này, vì như vậy là chiếm chỗ của những người khác.
Việc cậu sinh viên Mông Cổ phải lúng túng biện minh, rằng dù khoa học cơ bản ở Mông Cổ chưa phát triển, nhưng đất nước Mông Cổ cũng cần có giáo viên dậy vật lý, chỉ củng cố thêm những định kiến của tôi.
Tôi chỉ bắt đầu thay đổi định kiến này vào đầu những năm 1980, khi có dịp làm việc cùng một số nhà khoa học Mông Cổ tại Dubna, trung tâm vật lý hạt nhân quốc tế của các nước XHCN ở ngoại ô Moskva.
Khác với người Việt Nam thường rất quan tâm đến chuyện “tích cóp” công bố khoa học để làm luận án tiến sỹ, người Mông Cổ có những quan tâm khác hẳn. Trong nghiên cứu khoa học, họ không bao giờ đi vào những lĩnh vực cao siêu trừu tượng như các vấn đề lý thuyết, lý luận thuần túy, những vấn đề dễ “vẽ” ra luận án tiến sỹ.
Mà ngược lại, họ thường quan tâm đến những vấn đề có khả năng ứng dụng cụ thể và triển khai hiệu quả tại Mông Cổ. Đặc biệt là những phương pháp phân tích ứng dụng các kỹ thuật hạt nhân sử dụng trong công nghiệp và đời sống. Tóm lại, trong việc học hành, so với người Việt Nam người Mông Cổ tỏ ra thực học, thực dụng và rất ít “máu” bằng cấp khoa bảng.
Đặc biệt, trong các cuộc tụ tập, khác với người Việt thường thích nhậu nhẹt và chơi bài, người Mông Cổ thường thích chơi cờ vua và uống trà hơn. Nhìn chung so với người Việt Nam, người Mông Cổ có vẻ chậm chạp ù lì, nhưng thật thà đơn giản, dễ hòa đồng hơn hẳn và không bao giờ ranh vặt.
Kết bạn được với người Mông Cổ là một điều may mắn thực sự. Đa phần họ là những người bạn trung thực, chân thành và đáng tin cậy, nhưng lại thuộc loại như người Việt thường nói “thật thà là cha quỷ quái”.
LỰA CHỌN THỨ NHẤT – THỐNG NHẤT CÁC BỘ TỘC
Dưới áp lực của các bộ tộc Tartar, Khiết Đan, Mãn Châu và Turk, từ thế kỷ 12, các bộ lạc Mông Cổ phân tán đã bắt đầu có ý thức hợp nhất. Sau gần một thế kỷ thăng trầm, cuối cùng năm 1206, trong một cuộc họp toàn thể các bộ tộc Mông Cổ, các thủ lĩnh đã chọn Thiết Mộc Chân (Temujin) và bầu ông làm Đại Hãn (thủ lĩnh tối cao) với danh hiệu Thành Cát Tư Hãn (Genjis Khan).
Sau cuộc nhất thống các bộ tộc Mông Cổ, Thành Cát Tư Hãn và con cháu đã tiến hành nhiều cuộc chinh phạt tàn bạo khắp Châu Á và Châu Âu. Họ đã thành công nhờ sức hành quân bền bỉ vô song, kỷ luật sắt, tổ chức quân đội và chiến thuật giao tranh hiện đại, vũ khí tinh xảo của người Mông Cổ và kỹ thuật phá thành Trung Hoa hiệu quả. Trong các thế kỷ 13-14, một Đế Quốc Mông Cổ mênh mông được hình thành với thủ đô ban đầu ở Karakorum (Trung Á).
Đế quốc Mông Cổ từng có lãnh thổ rộng lớn nhất trong lịch sử nhân loại, trải dài từ biển Nhật Bản phía Đông đến Đông Âu phía Tây, từ Siberia phía Bắc đến vịnh Oman và Đông Nam Á ở phía Nam, bao gồm phần lớn lãnh thổ Châu Á (China, Nam Siberia, Trung Á, Trung Đông, Tây Tạng, Caucasus) và một phần lãnh thổ Châu Âu.
Tóm lại, việc thống nhất thành công các bộ tộc Mông Cổ và bầu được Đại Hản, không những cho phép người Mông Cổ bảo tồn được dân tộc, mà còn đưa dân tộc Mông Cổ lên một tầm vóc mới về tổ chức chính trị xã hội (chuyển sang chế độ phong kiến, hình thành các đô thị lớn), và văn hóa (tiếp nhận rất nhiều thành tựu văn hóa khoa học kỹ thuật của cả Trung Hoa lẫn Châu Âu).
Mặt khác, phải nói rằng việc hình thành Đế quốc Mông Cổ cũng là sự bắt đầu quá trình suy vong của dân tộc này. Đơn giản là vì việc quản lý một đế quốc như vậy vượt quá xa khả năng của họ. Về sau người Mông Cổ đành phải chấp nhận cơ chế tản quyền tự trị cống nạp.
LỰA CHỌN THỨ HAI – KỊP THỜI CHẠY KHỎI CHINA
Hốt Tất Liệt cháu Thành Cát Tư Hãn đã chinh phục được China và thành lập nhà Nguyên (1271-1368). Xuất phát từ trinh độ văn minh thấp hơn hẳn China, sau một thời gian ngắn không thành công trong việc “du mục hóa” China, và dưới áp lực của phong trào phục quốc China do Chu Nguyên Chương lãnh đạo, người Mông Cổ lập tức tháo chạy khỏi China.
Phải nói rằng việc “rút chân” kịp thời ra khỏi China, là một sự lựa rất sáng suốt. Sau hơn 80 năm thống trị Trung Hoa người Mông Cổ rất ít bị (chịu) Hán hóa, họ bảo tồn được hầu như nguyên vẹn lãnh thổ, bản sắc dân tộc và phiên hiệu quốc gia của mình.
Điều này hoàn toàn khác với người Mãn Châu một ngoại tộc thống trị China dưới thời nhà Thanh (1644-1912). Cùng xuất phát từ trình độ văn minh thấp hơn hẳn văn minh China như người Mông Cổ, nhưng lại có tham vọng chinh phục China bằng cách “hòa mình” vào văn hóa Trung Hoa, nên họ đã có kết cục khá bi thảm.
Mặc dù từng có những minh quân như Khang Hy, Càn Long, sau 268 năm “nấn ná” ở China, người Mãn Châu đã bị Hán hóa và “hòa tan” hầu toàn phần, nghĩa là đánh mất hết cả lãnh thổ, bản sắc dân tộc và phiên hiệu quốc gia của mình. Điều thú vị nhất, là trong thời kỳ Nhật xâm lược China (1937-1945), người Mông Cổ còn truyền bá kinh nghiệm lịch sử này cho người Nhật.
LỰA CHỌN THỨ BA – CHỌN PHƯƠNG ÁN ÍT XẤU HƠN
Sau triều đại nhà Nguyên sụp đổ, người Mông Cổ rút về phía Bắc thành lập triều đại Bắc Nguyên (1368-1635) trên phần lãnh thổ Mông Cổ và Nội Mông (China hiện nay). Đây cũng là thời kỳ mà Phật giáo Mật Tông (Lamaism) từ Tây Tạng bắt đầu xâm nhập vào Mông Cổ
Triều đại Bắc Nguyên tuy giữ được độc lập đối với nhà Minh và các quốc gia Trung Á khác, nhưng đã mất hoàn toàn hào quang của Đế quốc Mông Cổ và dần suy yếu do những mâu thuẫn nội bộ.
Năm 1635, Đại Hãn Bắc Nguyên chính thức đầu hàng Mãn Châu, và trở thành một bộ phận China từ 1644 khi nhà Thanh chính thức thành lập. Sau đó, dần dần Mông Cổ trở thành một tỉnh ngoại vi lạc hậu của nhà Thanh. Họ chỉ thoát khỏi sự cai trị của China vào năm 1911, khi nhà Thanh sụp đổ trong Cách mạng Tân Hợi.. Sau 1911 ở Mông Cổ đã thiết lập chế độ quân chủ Đại Hãn (1911-1924).
Xukhe Bator là người có công lớn nhất trong việc đưa Mông Cổ hoàn toàn thoát khỏi China lạc hậu, nửa phong kiến và nửa thuộc địa lúc đó. Xuất thân là một chiến binh trẻ tuổi (sinh 1893), Xukhe Bator nổi tiếng là một chỉ huy dũng cảm và có học thức trong quân đội Đại Hãn.
Nhận thức được sự vượt trội về mọi mặt của nước Nga, của Liên Xô so với China phong kiến, Xukhe Bator đã cùng với các đồng chí như Choibansan tiếp cận được các lãnh đạo Liên Xô (kể cả Lenin). Được sự giúp đỡ của Liên Xô họ thành lập Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ (1921) và Quân đội Nhân dân Mông Cổ theo mô hình ĐCS và Hồng quân Liên Xô.
Ông Xukhe Bator là Tổng chỉ huy đầu tiên của quân đội này. Được sự hỗ trợ của Liên Xô, Quân đội Nhân dân Mông Cổ của Xukhe Bator và các đồng chí đã đuổi được Quân đội Quốc dân đảng China ra khỏi Mông Cổ. Ngày 11/07/1921 Mông Cổ chính thức tuyên bố độc lập. Cũng từ đó Mông Cổ chính thức bước vào kỷ nguyên Liên Xô hóa toàn diện, thậm chí cả chữ viết Mông Cổ cũng dùng mẫu tự Kiril.
Trong trong khoảng thời gian kỷ lục bốn mươi năm (1925-1965), Mông Cổ đã từ một nước phong kiến với nền kinh tế nông nghiệp chăn nuôi du mục lạc hậu trở thành một quốc gia nông công nghiệp có nền chăn nuôi khá phát triển, gần như Liên Xô hồi đó.
Thời kỳ Xô Viết, Mông Cổ thường được gọi là nước Cộng hòa thứ 16 của Liên Xô. Thực tế Mông Cổ đã thực sự trở thành một bản sao không tồi về mọi phương diện, và được giúp đỡ toàn diện mọi mặt của Liên Xô. Sau Thế chiến 2, từ khoảng 1950 thủ đô Ulan Bator bắt đấu được quy hoạch, các căn hộ kiểu Xô Viết đã thay thế hầu hết các khu nhà yurt (nhà lều truyền thống Mông Cổ). Liên Xô thường xuyên tư vấn và hỗ trợ kinh phí xây dựng. Hầu hết các công trình tại Ulan Bator hiện nay được xây dựng trong thời kỳ từ 1960 đến 1985.
Vì vậy, tuy đô thị Mông Cổ phát triển gần như từ số không, nhưng nhìn chung cũng khá khang trang. Đặc biệt là tránh được tình trạng nhà ổ chuột, nhà ống, cũng như quy hoạch nhôm nham ở phần lớn các đô thị Châu Á đương thời.
Đa số người Mông Cổ đã được chuyển đến sống trong các khu chung cư có đầy đủ điện nước và các tiện nghi tối thiểu, cũng như được sử dụng các phương tiện công cộng, được biết đến nhà hát, rạp chiếu bóng, nhạc viện …
Đồng thời giống như các nước thuộc Liên Xô thời kỳ đó, giáo dục Mông Cổ phát triển vượt bậc, trẻ em được đi học ở các trường thuộc một nền giáo dục hiện đại bao gồm hệ thống các nhà trẻ, mẫu giáo, tiểu học, trung học và đại học được trang bị đầy đủ.
Tóm lại, bị “kẹp chặt” giữa China và Liên Xô, giới tinh hoa Mông Cổ luôn nói đùa một cách cay đắng “nếu không có nước Nga, Mông Cổ từ lâu đã là “Nội Mông mở rộng”. Còn nếu không có China, từ lâu Mông Cổ đã trở thành “nước Cộng hòa tự trị Mông Cổ” thuộc LB Nga”.
Tuy nhiên phải nói rằng trong nửa đầu thế kỷ 20 đối với người Mông Cổ, việc ngả về Liên Xô là một lựa chọn thành công. Lựa chọn này vừa tạo cho Mông Cổ khả năng phát triển tăng tốc trong một giai đoạn lịch sử nhất định, vừa tránh cho Mông Cổ nguy cơ bị đồng hóa nếu trở thành một tỉnh của China.
Vào những năm 1990, cùng với phong trào dân chủ hóa xã hội và mở cửa sang Phương Tây, trong thế hệ trẻ Mông Cổ khá nhiều người (đặc biệt là những người chưa bao giờ từng phải đốt phân bò khô để sửa ấm lều trại trong mùa đông) đã phủ nhận sự lựa chọn này. Họ cho rằng Liên Xô đã kìm hãm và làm “méo mó” sự phát triển tự nhiên đáng lẽ có thể rất huy hoàng của Mông Cổ, tương tự như trường hợp Cộng hòa dân chủ Đức và Czech (?).
LỰA CHỌN THỨ TƯ – ĐI VÀO DÒNG CHỦ LƯU CỦA NHÂN LOẠI
Như tất cả các nước thuộc Liên Xô thời kỳ TBT Brehznev (1964-1982), ở Mông Cổ đó là một giai đoạn kinh tế trì trệ, đi kèm với sự tha hóa của giới lãnh đạo. Năm 1984, Yumjaagiin Tsedenbal TBT Đảng Nhân dân Cách mạng Mông Cổ (ĐNDCMMC), chiến hữu của Brehznev, người lãnh đạo Mông Cổ hơn 40 năm bị hạ bệ, do phản đối việc Liên Xô bình thường hóa và thắt chặt quan hệ với China.
Được truyền cảm hứng từ những cải cách ở Liên Xô, phái cải cách trong ĐNDCMMC do TBT mới Jambyn Batmönkh dẫn dắt, đã thực hiện hàng loạt cải cách kinh tế.
Tuy nhiên trong con mắt các đảng viên trẻ của ĐNDCMMC, những điều này là chưa đủ. Tháng 11/1989, do ảnh hưởng từ Liên Xô, những cuộc đấu tranh đòi dân chủ hóa xã hội đã bắt đầu. Người khởi xướng của phong trào này là nhà hoạt động trẻ tuổi Tsakhiagiin Elbegdorj, vốn là sinh viên Trường Quan hệ Quốc tế Moskva danh tiếng.
Tsakhiagiin Elbegdorj bắt đầu tuyên truyền các ý tưởng cải tổ kinh tế, chính trị và dân chủ hóa xã hội của Liên Xô. Ông đã cùng 2 người khác là Dari Sukhbaatar và Chimediin Enkhee thành lập Phong trào dân chủ. Ngày 10/12/1989, cuộc tuần hành rầm rộ ủng hộ dân chủ hóa diễn ra trước Trung tâm Văn hóa thanh niên tại Ulan Bator. Tại đây, Elbegdorj tuyên bố thành lập Liên hiệp (Đảng) Dân chủ Mông Cổ.
Trong khoảng từ tháng 12/1989 đến 07/03/1990, tại Ulan Bator và một số thành phố Mông Cổ khác, đã diễn ra nhiều cuộc biểu tình đòi dân chủ (cả khi ngoài trời là – 30 độ C) với hơn 100.000 người tham dự. Những cuộc biểu tình này đã kết thúc vào ngày 09/03/1990 với việc người cầm đầu Chính phủ của ĐNDCMMC Jambul Batmönkh tuyên bố từ chức. Jambul Batmönkh cũng là người kiên quyết chống lại mọi biện pháp đàn áp đối với những người biểu tình.
Cùng ngày 09/03/1990 đã diễn ra các cuộc đàm phán giữa các lãnh đạo ĐNDCMMC và những người lãnh đạo biểu tình. Chính phủ mới tuyên bố cuộc bầu cử quốc hội tự do đầu tiên tại Mông Cổ sẽ được tổ chức vào 07/1990, mở đường cho cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên tại Mông Cổ.
Những sự kiện này về sau được gọi là Cách mạng Dân chủ Mông Cổ 1990. Đây là một cuộc cách mạng bất bạo động, không đổ máu. Ngày 29/07/1990 cuộc bầu cử quốc hội đa đảng đầu tiên ở Mông Cổ được tổ chức. Trong cuộc bầu cử này, ĐNDCMMC thắng 357/430 ghế tại Đại Hural (Thượng Nghị viện) và 31 trong số 53 ghế tại Tiểu Hural (Hạ Nghị viện). Kết quả của việc ĐNDCMMC có một vị thế rất vững chắc ở các khu vực nông thôn.
Vào tháng 11/1991, Đại Hural bắt đầu thảo luận về một Hiến pháp mới, có hiệu lực từ 12/02/1992. Hiến pháp xác định Mông Cổ là một quốc gia độc lập và có chủ quyền, Hiến pháp đảm bảo một số quyền tự do dân chủ, bao gồm việc bổ nhiệm chính phủ và nhánh hành pháp, việc thiết lập một cơ quan lập pháp đơn viện là Đại Hural Quốc gia.
Trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1992, ứng cử viên đối lập Punsalmaagiin Ochirbat đắc cử. Đó là cuộc bầu cử đầu tiên mà những người dân chủ giành thắng lợi. Từ đó đến nay (2019) trải qua nhiều thăng trầm, Mông Cổ nhịp nhàng chuyển sang chế độ dân chủ đại nghị đa đảng với 18 chính đảng chính thức hoạt động, trong đó ĐNDCMMC là chính đảng lớn nhất.
Khối Liên minh Dân chủ dưới quyền đồng lãnh đạo của Tsakhiagiin Elbegdorj, Chủ tịch Đảng Dân chủ Mông Cổ chỉ giành được đa số trong cuộc bầu cử Quốc hội lần đầu tiên vào năm 1996. Còn bản thân Tsakhiagiin Elbegdorj cũng chỉ trở thành tổng thống Mông Cổ lần đầu tiên năm 2009.
Định hướng đi vào dòng chủ lưu của nhân loại của Mông Cổ càng rõ nét hơn, sau thắng lợi trong cuộc bầu cử tổng thống tháng 07/2017 của ứng cử viên của Đảng Dân chủ Haltmaagiin Battulga cựu vô địch thế giới môn sambo (1989) và là một trong những doanh nhân giàu nhất ở Mông Cổ (tài sản cá nhân 1.2 tỷ USD).
Tổng thống Mông Cổ đương nhiệm gặp TT Nga. Ảnh En.Kremlin.ru
Chương trình tranh cử của ông bao gồm việc phát triển sâu rộng kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, chống tham nhũng và đặc biệt là kêu gọi chống lại sự bành trướng của China trong công nghiệp khai khoáng (ngành kinh tế chính của Mông Cổ) đã mang lại thắng lợi cho Haltmaagiin Battulga.
Sau khi trở thành tổng thống Mông Cổ, ưu tiên hàng đầu trong đường lối chính trị kinh tế đối ngoại của Haltmaagiin Battulga, là mở rộng quan hệ thương mại với Nga, để cân bằng ảnh hưởng của China. Nhưng còn quan trọng hơn, là mở rộng quan hệ với “người hàng xóm thứ ba” (Mỹ, EU, Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Turkey, Ấn Độ, Úc, Việt Nam …), để cân bằng ảnh hưởng và giảm phụ thuộc vào cả China lẫn Nga.
Tuy nhiên, Haltmaagiin Battulga và các nhà lãnh đạo Mông Cổ khác không có ý định tham gia vào bất cứ liên minh chính trị quân sự nào nhằm chống lại Nga và China.
VÀI NÉT VỀ MÔNG CỔ HÔM NAY
Mông Cổ có diện tích 1.560.000 km2, dân số 3.17 triệu người với khoảng hơn 50% là cư dân đô thị (riêng Ulan Bator 1.3 triệu người). Mông Cổ là một đất nước toàn núi đồi, thảo nguyên và sa mạc nhưng lại giầu khoáng sản: đồng, thiếc, kẽm, vàng, molibden, volfram, uranium và than đá.
Tổng cộng có khoảng 75 khu quặng mỏ có giá trị khai thác công nghiệp. Tổng giá trị 10 khu mỏ tiềm năng nhất ước lượng là 2750 tỷ USD.
Những năm 2000-2012, Mông Cổ có tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt trội từ 13-15% năm. Từ sau 2012, kinh tế Mông Cổ bắt đầu chững lại. Cụ thể năm 2018, tốc độ tăng trưởng là 5.8%.
Cơ cấu kinh tế (đóng góp GDP): chăn nuôi trồng trọt 16.6% (42% lao động), khai khoáng 20% (4% lao động), gia công chế tạo 7.2% (6% lao động), dịch vụ 44.8% (48%).
Năm 2017, doanh số xuất khẩu của Mông Cổ là 6.201 tỷ USD (đối tác chính gồm có China 73%, Anh và Thụy Sỹ 9.7%, Nga, Ý, Hàn Quốc dưới 1%). Nhập khẩu là 4.335 tỷ USD (đối tác chính gồm có China 31.6%, Nga 27.8%, Nhật Bản 8.7%, Hàn Quốc 4.6% và Mỹ 4.4%).
Như đã đề cập ở trên sự phụ thuộc ngày càng lớn vào xuất nhập khẩu với China dấy lên mối lo ngại và phẫn nộ sâu sắc trong xã hội Mông Cổ, và là tiền để cho thắng lợi của Haltmaagiin Battulga trong cuộc bầu cử tổng thống 07/2017.
Để dễ nhận biết những thành tựu của Mông Cổ hôm nay, tôi xin phép so sánh những thành tựu của Mông Cổ với Uzbekistan, một quốc gia quan trọng ở Trung Á. Thời kỳ Xô Viết Uzbekistan từng phát triển hơn Mông Cổ khá nhiều, và từng là bậc đàn anh, khuôn mấu cho Mông Cổ.
Theo IMF năm 2018, GDP (PPP) TB người của Mông Cổ là 13.447 USD và Uzbekistan là 7665 USD tương ứng. Năm 2018, chỉ số HDI (Human Development Index) của Mông Cổ là 0.741 (xếp hạng 92) và Uzbekistan là 0.710 (xếp hạng 105) tương ứng.
Mông Cổ có thể chế chính trị dân chủ đại nghị đa đảng. Năm 2018, the Democracy Index của Mông Cổ là 6.50 (xếp thứ 62), còn Uzbekistan có thể chế chính trị toàn trị và the Democracy Index của Uzbekistan là 2.01 (xếp thứ 156) tương ứng.
Về tham nhũng, năm 2018, CPI (Corruption Perceptions Index) của Mông Cổ là 37 (xếp hạng 93), còn). CPI của Uzbekistan là 23 (xếp hạng 158) tương ứng. Ngoài ra, Chỉ số thất bại quốc gia (Failed States Index – FSI) của Mông Cổ là 54.1 (xếp hạng 128) – thuộc loại quốc gia bền vững và Uzbekistan là 75.7 (xếp hạng 70) – thuộc loại quốc gia bị cảnh báo.
QUAN HỆ VỚI NGƯỜI CHINA
Như đã nói ở trên, người Mông Cổ rất lo ngại và phẫn nộ trước sự bành trướng của China trong nhiều lĩnh vực, trước hết là trong công nghiệp khai khoáng. Khác với người Nga được tôn trọng, vì nhiều lý do lịch sử và văn hóa, trong đời sống thường nhật, không ít người Mông Cổ công khai bầy tỏ thái độ không thích, kỳ thị với người China.
Chẳng hạn, thường là công dân China bị khám xét kỹ lưỡng hơn rất nhiều khi đi qua các trạm biên phòng và hải quan. Hay là người Mông Cổ thường không chào đón, mặn mà việc kết hôn với người China.
Hiện nay ở Mông Cổ thường xuyên có khoảng từ 20-25.000 lao động nhập cư China làm việc trong các công ty khai khoáng hoặc xây dựng. Nhìn chung Sở di trú Mông Cổ theo dõi rất chăm chú những người này. Trường hợp không có giấy phép lao động, hoặc thị thực nhập cảnh qúa hạn, đối tượng sẽ bị trục xuất cưỡng bức trong vòng 6 giờ.
Chính quyền Mông Cổ có vẻ như kiểm soát được tương đối chặt biên giới Mông Cổ – China (dài tổng cộng 4677km). Vì vậy, biên giới Mông Cổ – China hoàn toàn không phải là “thiên đường” cho buôn bán tiểu ngạch và hàng nhập lậu.
PS. Đương kim tổng thống Mông Cổ Haltmaagiin Battulga có vợ gốc Nga (quốc tịch Mông Cổ), và sử dụng thành thạo tiếng Nga và tiếng Anh. Cả nhà Tổng thống sống trong một căn hộ của riêng gia đình ở ngay gần dinh tổng thống. Hàng ngày Haltmaagiin Battulga đi bộ đến Văn phòng làm việc.
Cách tốt nhất để hiểu người Mông Cổ, là đắm mình vào thiên nhiên kỳ vỹ của họ. Lấn đầu tiên tôi đến Mông Cổ vào giữa mùa đông, và lập tức bị mê hoặc, choáng ngợp. Bầu trời mênh mang xanh ngắt không một gợn mây, nắng vàng chói chang trên thảo nguyên, trời lạnh thấu xương (- 40 độ C), mà các cô gái và lũ trẻ má hồng hây hây vẫn thản nhiên từ tốn dạo chơi
Tâm Trần