Ánh sáng Paris, nước mắt Sài-gòn – Lịch sử của một mối tương quan bi thảm

Sơn Tùng

 -Trong 2,000 năm qua, Âu Châu đã trải qua rất nhiều biến cố và đổi thay – từ  các vương quyền thời Constantine của Đế quốc La-mã (306-377) đến triều đại Philip của Pháp vào Thế kỷ 13, 14, tiếp đó là thời Phục hưng rồi thời kỳ cách mạng khoa học, đến thời đại ánh sáng và sau cùng là các làn sóng cách mạng xã hội tại Pháp và  cách mạng vô sản vào Thế kỷ 20 với hai trận đại chiến và cuộc Chiến tranh Lạnh.

Chính từ sau thời Phục hưng và kéo dài tới đầu thế kỷ 20, nền văn minh Ki-tô giáo của Âu Châu đã tỏa rộng ra nhiều lục địa khác. Sự bành trướng ảnh hưởng ấy đã đánh dấu thời kỳ huy hoàng nhất của Âu Châu cùng lúc với giai đoạn cực thịnh của chủ nghĩa thực dân.

Các nước Âu Châu thi nhau đi xâm chiếm thuộc địa, từ Phi Châu đến Mỹ Châu, Á Châu. Tại Á Châu, hầu hết các nước – kể cả Trung Hoa và Ấn Độ, hai nước rộng lớn với những nền văn minh lâu đời –  đều bị các nước Tây Âu nhỏ hơn chinh phục, trừ Nhật Bản nhờ đã chọn con đường canh tân sớm.

Riêng Việt Nam, một nước ở Viễn Đông,  không nhỏ hơn nước Pháp nhưng đã bị đánh bại và bị xâm chiếm vì yếu hơn về sức mạnh quân sự. Cùng với đoàn quân viễn chinh, người Pháp đã đem theo vào Việt Nam khẩu hiệu: “Tự do, Bình đẳng, Huynh đệ”.

Những tư tưởng cao đẹp ấy đã thấm nhuần nhiều thế hệ người Việt qua các tác giả nổi danh như Rousseau, Voltaire, Montesquieu. Ảnh hưởng hàng ngàn năm của văn hóa Trung Hoa trong xã hội Việt Nam đã bị phai nhạt vì sự lấn áp và hấp dẫn của nền văn minh Tây phương rực rỡ cả về kỹ thuật, lẫn triết học.

Tuy nhiên, thật mỉa mai, cùng lúc ấy chế độ thuộc địa đã dùng bạo lực đàn áp những cuộc nổi dậy để mưu giành lại độc lập cho Việt Nam. Nhiều người yêu nước đã bị tù tội, lưu đày, và xử tử, nhưng sự đối kháng ít khi đình chỉ, kể cả lúc chế độ thuộc địa của Pháp tại Việt Nam phát triển tới mức huy hoàng nhất vào đầu thế kỷ 20.

Hiện tượng ấy đã cùng lúc phơi bày “hai nước Pháp” khác nhau. Một nước Pháp của những kẻ đi chinh phục đất đai, tàn bạo, và mặt khác là một nước Pháp  của những triết gia, nhà văn, nhà thơ với những tư tưởng vĩ đại đã tạo ra một phong trào canh tân ở Việt Nam, hướng về nước Pháp như một trung tâm của văn minh Tây Âu. Nhiều người đã sang Pháp học hỏi về khoa học, kỹ thuật, triết học, kinh tế, chính trị, hay tìm phương cách giải phóng Việt Nam khỏi ách thực dân. Một trong những người này là Nguyễn Tất Thành, về sau đội dưới một tên giả là Nguyễn Ái Quốc.

Sang Pháp năm 1911 với nghề làm bồi trên tàu biển, Nguyễn Ái Quốc đã học hỏi về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản tại đất nước của “Tự do, Bình đẳng, Huynh đệ”, và trở thành một đảng viên sáng lập Đảng Cộng sản Pháp vào năm 1920, rồi sau đó được đưa sang Nga đào tạo thành một cán bộ cộng sản quốc tế để trở về Việt Nam năm 1945 với tên mới là Hồ Chí Minh, tìm cách nắm quyền lãnh đạo các lực lượng kháng chiến chống thực dân Pháp.

Ngày nay, ở Thế kỷ 21, hơn 80 triệu dân Việt Nam đang ăn cái trái đắng do Hồ Chí Minh đem từ Pháp về gieo trồng, trong lúc cái gốc cây già cỗi tại nước Pháp đã suy tàn cùng với phong trào cộng sản quốc tế sau sự sụp đổ của Liên Sô và khối Cộng sản Đông Âu. Trong những cuộc bầu cử gần đây tại Pháp, đảng Cộng sản chỉ chiếm được khoảng hai phần trăm tổng số phiếu bầu. Paris vẫn rực rỡ đèn hoa, trong lúc Sài-gòn – một thời từng được gọi là “Hòn ngọc Viễn đông” – đã bị mất tên và quằn quại dưới bạo lực cộng sản.

Những gì đã xảy ra trong mối tương quan giữa Việt Nam và Pháp trong khoảng thời gian hơn nửa thế kỷ vừa qua rất đáng được nhắc tới trong lúc chúng ta thảo luận về đạo tắc của lịch sử và luân lý của các sử gia.

Mối tương quan giữa Việt Nam và Pháp là một liên hệ đáng buồn, đặc biệt là với những người Việt Nam đã trở thành nạn nhân trong cuộc tranh chấp vừa qua trên đất nước của họ. Thật vậy, khi chủ nghĩa thực dân bị suy sụp sau Thế Chiến II, chính sự tái chính phục Việt Nam của người Pháp đã làm cho Hồ Chí Minh và các đảng viên cộng sản của ông ta trở thành “những kẻ giải phóng” chiến đấu để giành độc lập cho đất nước của họ.

Mỉa mai thay, ngay sau khi được giải phóng khỏi Đức Quốc-xã, Charles de Gaulle, người anh hùng của nước Pháp tự do, đã đưa quân trở lại Việt Nam để toan tái lập chế độ thuộc địa. Cuộc phiêu lưu đầy tham vọng này  đã gây ra một cuộc “chiến tranh giải phóng không cần thiết” (do cộng sản nhân danh) và một cuộc “chiến đấu chống cộng giả hiệu” (do người Pháp nại ra) kéo dài tám năm (1946-1954), chỉ chấm dứt sau khi quân đội Pháp bị đánh bại tại trận Điên Biên Phủ. Cuộc chiến tranh không cần thiết này đã có thể tránh được nếu chính phủ Pháp thời ấy cũng đối xử một cách khôn ngoan với cựu thuộc địa như người Anh đã làm với Ấn Độ, Mã Lai và Singapore nhờ đó các nước này đã không bị rơi vào gông củm cộng sản.

Sau chiến thắng Điện Biên, Hồ Chí Minh được chia tặng quyền thống trị miền Bắc Việt Nam tại Hội nghị Genève năm 1954.  Pháp còn ở lại Việt Nam thêm hai năm cho đến khi một chính thể dân chủ được thành lập tại miền Nam với sự trợ giúp của Hoa Kỳ.

“Cuộc Chiến tranh Việt Nam thứ hai” (1960-1975) là một cuộc xâm lăng của Cộng sản Bắc Việt vào miền Nam Việt Nam, nhưng vì  tuyên truyền của cộng sản, khuynh hướng thiên tả của truyền thông Tây phương, thái độ ganh tị của giới cầm quyền Pháp mưu tìm lại một vai trò đã mất tại cựu thuộc địa – sự tham chiến của người Mỹ đã bị lên án, và cuộc chiến ấy đã được nhìn từ Tây phương như một cuộc “chiến tranh giải phóng”, và Hồ Chí Minh được tô vẽ như một “lãnh tụ quốc gia” vĩ đại.

Huyền thoại này chỉ đổ vỡ sau khi Cộng sản Bắc Việt xé bỏ Hiệp định Pairs 1973, dốc toàn lực đánh chiếm miền Nam Việt Nam vào tháng 4 nặm 1975, với viện trợ quân sự của Liên Sô và Trung Cộng. Sau khi chiến thắng, CSVN đã dựng ra hàng trăm trại tập trung cải tạo trên khắp nước, nơi hàng trăm ngàn người đã bị đày ải nhiều năm trong tình trạng đói khổ. Chiến thắng của Cộng sản đã đẩy hàng triệu “thuyền nhân” ra biển khơi bất chấp nguy hiểm đi tìm tự do trên những con thuyền gỗ nhỏ, mà khoảng một phần ba đã bỏ thây trên biển.

Ngày nay, nhân dân Việt Nam đang sống dưới một chế độ tàn bạo mà tội ác đã được lược kê trong cuốn “Sách đen của Chủ nghĩa Cộng sản” của Stéphane Courtois và năm tác giả khác, cùng với tội ác của những chế độ cộng sản khác đã tàn sát hơn một trăm triệu người vô tội trên thế giới. Ở Việt Nam hiện nay, đang có nhiều người bị cầm tù chỉ vì muốn sử dụng những quyền tự do căn bản mà người dân ở phương Tây đã được hưởng từ lâu – như tự do ngôn luận, tự do tôn giáo, và tự do diễn đạt tư tưởng.

Từ nhiều năm nay, Ủy Ban các Nhà văn bị cầm tù thuộcVăn Bút Quốc Tế đã nỗ lực hoạt động để bảo vệ những nhà văn, nhà báo bị đàn áp một cách có hệ thống và bị giam cầm tại Việt Nam. Các tổ chức nhân quyền khác ở Âu Châu cũng đã không ngừng lên tiếng kết án sự đối xử bạo ngược của CSVN với chính người dân Việt Nam.

Âu Châu ngày nay đang biến đổi, và đối diện với những thử thách lớn vào đầu Thế kỷ 21. Để đối phó với những vấn đề trước mắt và tương lai, Âu Châu cần có cái nhìn chính xác và can đảm về những gì đã xảy ra trong quá khứ và những gì đang diễn ra trong hiện tại, không phải chỉ ở Âu Châu mà ở cả thế giới bên ngoài, với đạo tắc của lịch sử và lương tâm của những nhà viết sử.

Các sử gia phương Tây trả lời thế nào về lời ta thán của Alan C. Cors, một giáo sư về môn lịch sử trí thức Âu Châu tại Đại Học Pennsylvania: “Phương Tây chấp nhận một tiêu chuẩn kép kỳ quái về lịch sử không thể tha thứ được. Chúng ta nhắc lại tội ác của chủ nghĩa Quốc-xã gần như mỗi ngày; chúng ta đem những tội ác ấy để dạy cho con cháu chúng ta như là những bài học lịch sử và luân lý tuyệt đối; và chúng ta đem nhân chứng đến từng nạn nhân. Trừ một số rất ít ngoại lệ, chúng ta hầu như im lặng về những tội ác của chủ nghĩa Cộng sản.”Và đây là tội ác của cộng sản mà ông ta đã vạch ra: “Trong lịch sử loài người, chưa từng có cớ lý nào  đã sản xuất nhiều bạo chúa máu lạnh, nhiều người vô tội bị tàn sát và nhiều trẻ mồ côi hơn là chủ nghĩa xã hội khi nắm quyền. Nó vượt qua với cấp số nhân tất cả các hệ thống khác trong việc sản xuất xác chết.”

Đã tới lúc các sử gia Âu Châu và Mỹ cần nhìn nhận sự sai phạm trong quá khứ và nhận thức đầy đủ về sự tàn bạo hiện hữu tại Việt Nam. Không sử gia lương thiện nào có thể viết về tình trạng hiện nay tại Việt Nam mà không lên án sự vi phạm nhân quyền của chế độ cộng sản hiện tại và lên án giai cấp thống trị thối nát đã được tạo lập qua bạo lực, tù đày và sát nhân. Chỉ khi nào “Tự do, Huynh đệ và Bình đẳng” được thực thi tại Việt Nam thì người dân mới có tự do thực sự và sống trong hòa bình.

*(Chuyển ngữ từ bài tham luận bằng Anh ngữ “Lights of Paris, Tears of Saigon” phát biểu tại 40th International PEN Conference: “An Ethical Attitude to History as a Source of Peace”, Bled, Slovenia)

(40th International PEN Conference: An Ethical Attitude to History as a Source of Peace)

LIGHTS OF PARIS, TEARS OF SAIGON

History of a tragic relationship

By Son Tung (Vietnamese Abroad PEN)

In the past two thousand years, Europe witnessed several big events and a transformation – from the Roman empire’s Constantine (306-377) to the France monarchy’s Philip in 13th and 14th century, followed by the Renaissance and the scientific revolution, then the age of enlightenment and at last waves of socialist revolution in France and communist revolution in 20th century with two World Wars and the Cold War.

After the Renaissance and lasting until early 20th century, European Christian civilization spread toward many other continents. This expansion of influence marked the most splendid era of Europe, along with the flourishing of colonialism.

Several European countries rushed to colonize countries in other continents, from Africa to South America, to Asia. In Asia, most countries – including China and India, two vast countries with old civilization – were conquered by smaller countries from the West. Japan was an exception thanks to its early modernization.

As for Vietnam, a country in the Far East, she was defeated and occupied by France, a European country similar in size but outmatched Vietnamese military might. Along with the occupied forces and colonial rule, the French brought to Vietnam its slogan “Liberty, Equality, Fraternity”.

Consequently, those beautiful thoughts impregnated in many Vietnamese generations from French great authors such as Rousseau, Voltaire, and Montesquieu. Chinese thousand year cultural influence in Vietnam society eventually faded due to the attraction of Western civilization with its glory both in technology and philosophy.

Ironically, it was the same French colonial rulers that blatantly suppressed the uprisings of Vietnamese trying to free their country. Many patriots were imprisoned, deported, and executed, but the resistance rarely ceased, even when French colonial development in Vietnam reached its zenith in the early 20th century.

Those phenomena in the same time exposed “two Frances”: one represented by the ruthless conquerors, and another for the philosophers, writers, poets with great thoughts who inspired a modernizing movement in Vietnam looking to France as a center of Western civilization. Several young Vietnamese went to France where they studied science, technology, philosophy, political economy, etc, or sought a way to free Vietnam from the yoke of colonial rulers. Among them was Nguyen Tat Thanh, who later took a pseudonym as Nguyen Ai Quoc.

Traveling to France in 1911 as a janitor on a merchant ship, Nguyen Ai Quoc learned about socialism and communism in the land of “Liberty, Equality, Fraternity”, and became a founding member of the French Communist Party in 1920. Shortly after, he went to Moscow to be trained as a professional communist revolutionary, and came back to Vietnam in 1945 under the new name as Ho Chi Minh. He then maneuvered to take control the resistance forces against French Colonialism.

Today, in the 21st century, more than 80 million Vietnamese are swallowing bitter fruits from a tree sowed by Ho Chi Minh who brought the seed from Paris. Now, however, the old communist tree in France is withered after the collapse of the Soviet and Eastern Europe communist bloc. In recent elections in France, the Communist Party got only about 2 percents of votes. Paris is still “the City of Light”, but Saigon – once “the Pearl of the Far East”- had its name changed and has been suffering under communist tyranny.

The relationship between Vietnam and France in the past over half century is worthy to be considered while we discuss the ethics of history and the morality of historians.

The history of the relationship between Vietnam and France is a sad one, especially for the Vietnamese who were victimized by the recent conflict in their fatherland. Indeed, after the World War II, when the colonialism disintegrated, it was the French re-conquest of Vietnam that made Ho Chi Minh and his communist followers the “liberators” in the fight for their country’s independence.

Ironically, soon after France was freed from Nazis occupation, Charles de Gaulle – French liberation hero – sent troops to Vietnam in an attempt to reclaim the former colony. This ambitious adventure subsequently caused an unnecessary liberation war (as declared by Vietnamese communists) and a pseudo-anticommunist war (as French said) that lasted 8 years (1946-1954), ceased only when French army was defeated at Dien Bien Phu. This unnecessary war might have been avoided had French government at the time wisely dealt with its former colony as the Britons did with India, Malaysia and Singapore which saved those countries from falling under the communist yoke.

After the victory at Dien Bien Phu, Ho Chi Minh was rewarded sovereignty over North Vietnam by the Geneva conference in 1954. French stayed in Vietnam for two more years when a democratic regime was formed in the South with the support of the United States.

The “second Vietnam war” (1960-1975) was an invasion of South Vietnam by North Communists, but because of communist propaganda, liberal left bias of Western media, French ambition to retrieve a lost role in former colony – American participation was condemned and the war was seen from the West as a “liberation war” and Ho Chi Minh was painted as a great nationalist leader.

This myth was demolished only after the North Vietnamese Communists blatantly violated the Paris 1973 cease-fire agreement. With Soviet and China military aids, the communists launched an all out offensive to overrun the South. After their victory in April 1975, they set up hundreds of “re-education camps” throughout the country, where thousands of hapless victims of their success languished in near-starvation conditions for years. The communist victory caused millions of “boat people” to flee in small wooden boats in an unprecedented exodus to seek freedom. It has been estimated that one third of them perished on the high sea.

Today, Vietnamese people are suffering under a regime of brutal dictators whose crimes were summarized in the “Black Book of Communism” by Steùphane Courtois and five other co-authors, along with the crimes of other communist regimes that caused the deaths of more than one hundred million innocents world wide. In Vietnam today, many people are imprisoned just because of trying to practice the basic human rights that people in the West have been enjoying for so long – such as freedom of speech, freedom of religion, and freedom of expression.

For several years now, International PEN Writers in Prison Committee has been working hard in order to protect writers, journalists who were systematically repressed and imprisoned by the Vietnamese communist rulers. And for years other human rights organizations in Europe also condemned the Socialist Republic of Vietnam for its cruel treatment to its own people.

Europe faces big changes and challenge in the 21st century. To deal with current and future issues, Europe must have an accurate and courageous view of what happened in the past and what is happening now, not only in Europe but also in the outside world, with an ethical attitude towards history and conscience of historians.

How can historians in the West response to Alan C. Cors, a professor of Europe intellectual history at the University of Pennsylvania (USA) when he complained: “The West accepts an epochal, monstrous, unforgivable double standard. We rehearse the crimes of Nazism almost daily; we teach them to our children as ultimate historical and moral lessons; and we bear witness to every victim. We are, with so few exceptions, almost silent on the crimes of communism.” And here is what he said about the crimes of communism: “No cause, ever, in the history of mankind, has produced more cold-blooded tyrants, more slaughtered innocents and more orphans than socialism with power. It surpassed, exponentially, all other systems of production in turning out the dead.”

It is time for European and American historians to recognize the abuses of the past and gain full awareness of the tyranny that exists in Vietnam today. No ethical historian can view the current situation in Vietnam without condemning the human rights violations of the current communist regime and its corrupt ruling class, which was created through violence, imprisonment and murder. It is only when “liberty, fraternity and equality” are truly practice in Vietnam that its people can truly be free and live in peace.

By Son Tung

Related posts