Ukraina: Khi Stalin Biến Con Người Thành Kẻ Ăn Thịt Đồng Loại

Fanny Facsar/ Phương Tôn dịch

Lời người dịch: Vào một mùa hè năm nào, sau khi có thông tin báo động: nông dân vùng miền nam Romania cần sự giúp đỡ khẩn cấp cho vụ mùa lúa mạch đang bị đe dọa vì những trận mưa lớn bất thường sắp đến, “Hiệp hội Phục vụ Cứu nạn và Bảo vệ Thiên tai – Verein für Rettungsdienst und Katastrophenschutz VRT” gồm những người chuyên “ăn cơm nhà, vác ngà voi” liền lập tức đưa ra những nhóm “phản ứng nhanh” gồm những người có thể dễ dàng xin nghĩ việc trong chổ làm việc kiếm cơm hàng ngày để sang Romania giúp nông dân … dọn ruộng.

Sau khi vượt trên ngàn cây số, xuyên qua xứ Áo với những ngọn đồi núi thơ mộng, sang đất nước Hungary với những „tấm thảm” lúa vàng chín mọng chạy dài đến tận chân trời hút mắt, đặt chân lên biên giới Romania với những nụ cười thiệt dễ thương của cảnh sát biên giới vì thấy số xe từ nước “nhà giàu” đến nhưng lại có những giọng nói cộc cằn với những người từ các nước anh em xã hội chủ nghĩa một thời, để rồi cuối cùng, chúng tôi cũng đạt đích cuối là một ngôi làng nhỏ xa xôi „tận cùng thế giới“ nằm trong khu vực ngã ba biên giới Hungary, Romania và Ukraina. Ngôi làng thanh bình, yên ổn không khác gì với những ngôi làng ở Việt Nam trước đây. Cũng gà cũng vịt chạy tự do long nhong chẳng ai thèm trộm, cũng những giếng nước với vài cô thôn nữ đến lấy nước sạch và đặc biệt làng chỉ có phần lớn là người già, phụ nữ và trẻ con nhưng vắng bóng đàn ông vì họ phải đi qua các nước lân cận kiếm sống… “Quân” được rãi ra khắp làng. Nhóm nhỏ năm người chúng tôi được “gài” vào sống chung trong một gia đình nông dân Romania gốc Đức gồm một ông, không bà, và ba người cháu trong một tuần lễ để phụ giúp ông cụ chủ nhà và các nhà hàng xóm việc đồng án. Nhằm thời gian đúng vào những đêm trăng tròn nóng bức, sau một ngày lao động, đám đàn ông thường tụ tập dưới những giàn nho sai trái với cái không thể thiếu là lò thịt nướng „Mici“ quốc hồn quốc túy (loại thịt bằm vo lại từng cục dài bằng lóng tay), dĩ nhiên không thể thiếu những chai bia „Noroc“ made in Romania 2,5lit chứa trong chai nhựa trông không „bắt mắt“ chút nào. Bia được làm lạnh bằng cách treo dây thả xuống giếng nước sâu. Đúng như câu nói “Nơi nào có mật thì sẽ có ong đến”: có “Mici”, có bia “Noroc”, có thanh niên Tây Âu điển trai, túi rủng rỉnh Euro thì cũng không thể thiếu một vài cô thôn nữ địa phương lân la đến làm quen. Rượu vào lời ra không thể nào tránh khỏi, trò chuyệm râm rang dù ngôn ngữ bất đồng cho đến khi trời khuya mát dịu, đến khi đó “tình cho không biếu không” giữa các cô cậu nếu không xảy ra mới là chuyện lạ.

Đọc bài „Khi Stalin biến con người thành kẻ ăn thịt đồng loại“ của Fanny Facsar, ta có thêm cái nhìn về Tố Hữu. Tư tưởng và trí sáng tạo lố bịch của ông ta chỉ có thể được nhào nặn ra trong cuộc đấu tranh giai cấp mù quáng đi theo chỉ đạo của Stalin. Thử hỏi, còn khốn nạn, tàn nhẫn nào hơn khi Tố Hữu đứng trên hàng triệu xác người dân Ukraina chết vì đói do bị tước quyền tư hữu ruộng đất, để khóc và ca tụng tên „kiến trúc sư“ gây nên thảm họa đói, một tội đồ nhân loại:

Bữa trước Ngày xưa khô héo quạnh hiu
Có Người mới có ít nhiều vui tươi
Ngày xưa đói rách tơi bời
Có Người mới có được nồi cơm no
Ngày xưa cùm kẹp dày vò
Có Người mới có tự do tháng ngày
Ngày mai dân có ruộng cày…(Thơ Tố Hữu)

***

Chết hàng loạt sau hàng loạt vụ tước quyền tư hữu đất ruộng
Tài liệu từ những kho chứa tài liệu tại Ukraina xác nhận những gì mà các nhà sử học cũng như những người sống sót đã từng thố lộ. Thảm nạn đói là do chính quyền Stalin từ Moskau chủ đạo tổ chức, được thi hành qua đám dân nghèo Ukraina (tạm gọi là đám thừa hành, LND) bị mua chuộc. Mục đích là để đánh gục sức đề kháng của nông dân Ukraina chống lại việc cưỡng bức tập thể hóa và bị đe dọa tước quyền tư hữu ruộng đất.
Nga chính thức phủ nhận nạn đói đã từng xảy ra và tảng lờ khi nhắc đến vai trò của Stalin. Chỉ lấp liếm cho rằng, chẳng qua chỉ là vụ mùa thu hoạch kém. Nhưng theo sử gia Kun: “Đó là luận điệu trơ trẽn. Ai cũng biết Ukraina được xem là mảnh đất nông nghiệp màu mỡ, từng nuôi ăn phần lớn Liên Bang Sô Viết.”
Ngày nay tại Ukraina sự thật về trận đói năm nào không còn là đề tài tối cấm kỵ. Vào cuối năm 2006 Tổng Thống Viktor Juschtschenko đệ trình một dự luật ra trước quốc hội, cho phép trừng phạt những ai phủ nhận, nhạo báng trận đói. Mức án vẫn chưa được đề ra nhưng bộ luật là một bước tiến ngàn dặm trong sinh hoạt chính trị tại Ukraina. Người chết hàng loạt do bị tước quyền sở hữu ruộng đất cách đây 75 năm nay được quốc hội chính thức công nhận là Tội Ác Diệt Chủng chống lại người dân Ukraina.
Khổ đau bắt đầu tại một vài khu vực ngay từ cuối năm 1930. Một vài thông tin còn cho thấy trận đói bắt đầu từ năm 1929. Vào giai đoạn đó, những tên Cộng Sản tại Moskau quyết định tập thể hóa tại Ukraina. Kế hoạch dự trù hoàn tất trong vòng hai năm nhằm đưa Sô Viết tiến nhanh hơn trong chương trình kỹ nghệ hóa. Đây lại là cái giá mà người nông dân bị cướp ruộng đất phải trả.
Juri Krawtschenko, 44 tuổi có Ông Nội là người sống sót sau trận đói tại Petriwka thuộc miền Nam Ukraina, kể lại những gì đã xảy ra: “Đầu tiên là Kulaken (những người nông dân giàu có), sau đến những người nghèo khó trong làng. Những ai không tự nguyện gia nhập vào Kolchosen ( một hình thức Hợp tác xã nhà nước theo lối Sô Viết), được xem kẻ thù của đất nước. Họ không có công ăn việc làm cũng như bị cưỡng bức tước quyền tư hữu ruộng đất. Bảy anh chị em ông Nội của Krawtschenko chết trong trận Holodomor. “Những ai tự nguyện gia nhập vào Kolchosen thì được trả cho ít tiền, về sau thì chỉ được một nhúm thức ăn.”
Làng Petriwka ngày nay đã bị xóa tên. 90% tổng số 300 dân làng chết đói một cách đau đớn.

Trẻ con săn tìm nòng nọc và chim sẻ
Thời gian trước những năm thảm nạn, gia đình của Natalia Nidzelskas thuộc vào hàng trung lưu .”Chúng tôi ăn ngày ba bữa. Cha tôi là người thợ rèn duy nhất tại Pilipi nên ông có đủ việc làm”, Nidzelska hồi tưởng lại. “Năm 1931 những tên thừa hành đầu tiên vây chặt các làng mạc. Mọi người phải tự hiến đất ruộng rồi gia nhập vào Kolchosen. Sau đó thì họ tịch thu bò và thực phẩm dự trữ cho đến khi chúng tôi không còn gì trong tay. Cha tôi lại phải giao nộp toàn bộ dụng cụ hành nghề.” Đặc biệt những làng xóm như làng Pipili với 1500 dân cư nằm về phía Tây và Nam Ukraina chống đối mạnh việc cưỡng bức tập thể hóa, bị nạn đói hoành hành nặng nhất. Ngay cả dầu đốt và những que diêm cũng bị tịch thu.
Bốn anh chị em Nidelszka và cha mẹ sống sót được là nhờ vào họ còn có đủ sức để làm việc. “Anh em trai của tôi tìm cách bắn chim sẻ, bắt nòng nọc để ăn. Tôi và đứa em gái chẳng săn bắt gì được. Đói qua làm đôi chân của chúng tôi nặng cứng như cùm. Mẹ phải lén lút thêm cho chúng tôi nhiều hơn một ít cháo bột so với anh em trai của tôi. Thế rồi chúng tôi bị buộc ra đồng để làm việc.” Nidzelska kể lại. Trên đường về nhà, cô bé 12 tuổi vào thời đó phải gặm nhắm mẩu bánh mì lớn bằng hộp diêm, đây chính là lương ngày của cô bé. Vì nếu không, một khi những người hàng xóm đang đói thấy được họ sẽ nhào đến cướp hết. “Mẹ tôi phải nấu bột từ vỏ khoai, nấu nước vào đêm khuya để hàng xóm không thấy khói bốc lên”, bà kể với giọng còn run rẩy.
Tình trạng càng trở nên tồi tệ không lối thoát, đặc biệt với những gia đình đông người. Sang năm 1933 lại càng tệ hại hơn nữa. Tài liệu vào thời gian này chứng minh rõ, Stalin và Wjatscheslaw Michailowitsch Molotow, sau này trở thành bộ trưởng ngoại giao ban lệnh cấm nông dân chạy trốn vào tỉnh thành.
Nhiều gia đình tìm cách đưa con nhỏ vào Kiew và Charkow, thuở đó còn là thủ đô của Ukraina với hy vọng có ai đó sẽ cho chúng một ít thức ăn. Tuy nhiên bọn thừa hành lại tống bọn nhỏ trở lui, liệng chúng ra ngoài đồng ruộng để rồi chúng phải quằn quại chết đói.
Buôn bán áo quần cũ hoặc những vật dụng quý giá thu dấu được cũng bị cấm. Tuy nhiên Mẹ của Nidzelska và nhiều người khác cũng liều lĩnh ẩn trốn trên nóc tàu lửa để đem vật dụng vào thành phố lân cận xin đổi lấy một miếng bánh mì. Cha của Nidzelska coi sóc máy gặt, lén lút lấy từng hạt lúa nằm trong góc kẹt của máy dù ông cũng biết đấy chính là án tử hình.

Các bà mẹ ăn thịt con cái của họ
Chết đói hàng loạt cũng xảy ra trong khu định cư người Ukraina tại Sibiria. Krawtschenko nhớ lại những câu chuyện do bà Cố của anh kể lại: „Trong các làng mạc, người ta dùng xe đẩy chở xác người chết để vất vào những hố chôn tập thể”. Dưới thời Stalin, người Ukraina được xem là kẻ thù của Sô Viết. Họ được xem là loại “hàng lãng phí” của Sô Viết.
Tài liệu cho thấy, con số người chết phỏng chừng lên đến bảy triệu, trong đó ba triệu là trẻ em.
Cuối cùng cái đói cũng phá nát cái đạo đức cuối cùng của con người. Một vài bà mẹ đã ăn xác con cái bị chết hoặc giết chúng để ăn thịt. Nidzelska nhớ lại một trường hợp ăn thịt người xảy ra trong làng: „Tôi hết sức sợ khi nghe chuyện bà hàng xóm giết hai đứa con để ăn thịt trong lúc chồng bà đi làm thợ xẻ gỗ tại Sibiria. Cái đói đã mạnh hơn bản năng làm Mẹ của bà ấy. Tuy nhiên rồi bà cũng không sống sót được.“
Hàng thập kỷ qua chuyện kinh dị này được giữ kín . Một „Holocaus đói“ như những người sống sót đặt tên, là chuyện tuyệt đối cấm kỵ không được nói ra. „Người ta đã câm miệng quá lâu“, sử gia Kun tuyên bố, „Trong khi việc truy đuổi người Do Thái dưới thời Đức Quốc Xã được thế giới biết đến thì vẫn còn rất ít người biết về Holodomo này.“ Juri Krawtschenko hy vọng, việc chính thức xác nhận Tội Ác Diệt Chủng chống lại người dân Ukraina dẫn đến việc Nga sẽ cho mở kho hồ sơ nạn đói Ukraina, qua đó „toàn bộ sự thật sẽ được phơi bày ra ánh sáng.“

Phương Tôn biên dịch

Related posts