Từ Thăng tới Thưởng

Nguyễn Văn Chiến

Tháng Hai năm 2017 nguyên Bí thư Thành ủy Sài Gòn Đinh La Thăng phởn lên, tuyên bố sẽ đầu tư để giúp một giáo sư – bác sĩ nào đó của thành phố đoạt giải Nobel Y Khoa. Chỉ hơn hai tháng sau thì Thăng bị cách chức, 10 tháng sau thì bị tống vào tù, hiện đang ngồi gỡ lịch, nhẫm đếm bao giờ mới xong bản án 30 năm.

Ông Lê Thanh Hải bật khóc khi nhắc đến ông Võ Văn Thưởng
Lê Thanh Hải khóc Võ Văn Thưởng

Lẽ ra thì ghế bí thư của Thăng hồi đó phải là ghế của Võ Văn Thưởng. Cuối năm 2015 thì Thưởng được cử làm Phó bí thư thường trực của Sài Gòn, chắc mẫm rằng thể nào sau đại hội đảng cũng thành bí thư thay Lê Thanh Hải. Tuy nhiên do mặc cả phe phái với Nguyễn Tấn Dũng, Bộ Chính trị đã can thiệp, đẩy Thưởng ra Hà Nội làm Trưởng ban tuyên giáo, khiến Hải phải mếu máo, chảy nước trong lễ công bố quyết định ‘Dù em đi đâu, trên cương vị nào cũng sẽ luôn mang theo tình thương yêu, quý mến của đồng bào thành phố, của Đảng bộ TP.HCM’,

Nay cũng gần đại hội, Thưởng không rút kinh nghiệp của Thăng mà nổ tới trời, không biết lượng sức mình, Mới đây, ngày 20.9.2020 thì Võ Văn Thưởng phởn lên cơn, tuyên bố Việt Nam sẽ phấn đấu để cho ra lò những “triết gia tầm cỡ thế giới”.

Nhưng đầu tiên nhắc lại chuyện Thăng.

Giải Nobel của Thăng

Chuyện này được Thăng đề ra trong buổi gặp gỡ giữa các thầy thuốc và Thường trực Thành uỷ vào chiều 24.2.2017, nhân kỷ niệm 62 năm “Ngày thầy thuốc Việt Nam”.

Trong cuộc họp Giáo sư Nguyễn Thị Ngọc Phượng – được diễn tả là “chuyên gia đầu ngành về sản khoa Việt Nam” – trăn trở là “bác sĩ ở Việt Nam trình độ, tay nghề rất giỏi, nhưng cơ sở vật chất và sự chuyên nghiệp lại không theo kịp”. Bà phát biểu: “Hiện nay các anh chị bác sĩ ở đây ngang hàng với nước ngoài, nhưng chỉ là ở khía cạnh cá nhân. Nhưng làm sao phải để cho cả mặt bằng y tế nước ta ngang hàng với nước ngoài.”

Một người có trí tuệ trung bình thì khi nghe cụm từ “mặt bằng y tế” ắt phải nghĩ đến các “mặt bằng” khác trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, giáo dục, khoa học v.v.. Tuy nhiên Thăng lại là ngoại lệ. Đón nhận thông tin “bác sĩ ta giỏi lắm”, ông phởn lên nghĩ tới ngày bác sĩ nào đó trong thành phố mình lãnh đạo giật giải Nobel Y khoa. Ký giả Việt Đông tường thuật trong bản tin “TP.HCM nghiên cứu đề án giành Nobel y học” đăng trên Vietnamnet ngày 24.2.2017:

“ […] ông (Đinh La Thăng) cho đây là gợi ý và ý tưởng rất đáng suy nghĩ. Thành phố có đội ngũ y bác sĩ rất giỏi, có tiềm lực về y tế, có khả năng về kinh tế, có khả năng về nghiên cứu và nếu có quyết tâm có khả năng đạt được những thành tựu cao về y học. ‘Tiếp thu ý kiến của bác sĩ Phượng, lãnh đạo TP sẽ trao đổi và thành lập một tổ chuyên gia đầu ngành để chúng ta nghiên cứu thành lập đề án phấn đấu để có một đơn vị có thể giành được giải thưởng Nobel về y học trong tương lai” [… ] Ông khẳng định: ‘Chúng ta sẽ là địa phương đầu tiên của cả nước làm được điều đó. Vì tất cả chúng ta ngồi ở đây sẽ là người quyết định có hay không có giải thưởng Nobel y học’.”.

Thăng thì say sưa với những chuyện trên trời bất chấp thực tế của thành phố Sài Gòn nói riêng và Việt Nam nói chung. Thăng phởn lên với con số bác sĩ giỏi đếm trên đầu ngón tay mà quên đi cái “mặt bằng y tế” và bao nhiêu “mặt bằng” khác.

Chẳng nói đâu xa, khi ông ta say sưa với giải Nobel thì các bác sĩ lại lôi ông ta về với “mặt bằng y tế” ảm đạm, ngay tại buổi họp nói trên. Tại đây Giám đốc Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình Phan Văn Trí than thở: năm 2012 khi thấy bệnh viện quá tải tới 145%, chính quyền thành phố đã cho cơ chế thành lập mô hình bệnh viện vệ tinh, tuy nhiên đến năm 2016 bệnh viện vẫn bị quá tải 145%!

Đạt giải Nobel là việc cực kỳ khó. Mà nếu đạt được thì giải thưởng trên cũng khó mà thay đổi hiện trạng nói trên.

Bây giờ chúng ta quay lại với Thưởng

Triết gia tầm cỡ thế giới

Võ Văn Thưởng (VVT) đã phởn lên về chuyện này tại “Đại hội thành lập Hội Triết học Việt Nam” ngày 20.9.2020. Bài “phát biểu quan trọng” của Thưởng được báo Tiền phong đăng tải nguyên văn (Ngành Triết học Việt Nam sẽ có những bước phát triển vượt bậc) trên số ra ngày 21.9.2020. Để tiện góp ý tôi xin chia từng phần và đánh số thứ tự

1. VVT: “Hôm nay, tôi rất vui mừng được tham dự Đại hội thành lập Hội Triết học và cũng là Lễ ra mắt của Hội Triết học nước nhà.

Trong niềm vui này, thay mặt Ban Bí thư Trung ương Đảng, thay mặt lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương và với tư cách cá nhân của một người học triết học, tôi xin nồng nhiệt chúc mừng các đồng chí – những người đang nghiên cứu, giảng dạy triết học có mặt tại Đại hội hôm nay và tất cả những người đang hoạt động trong lĩnh vực này trên khắp mọi miền của Tổ quốc. Xin chúc giới triết học Việt Nam mạnh khỏe, hạnh phúc, sáng tạo, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc!”

Nhận xét & góp ý:

  • Theo tiểu sử chính thức thì Thưởng tốt nhiệp Cử nhân Triết học Mác – Lê nin tại Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh năm 1992, tốt nghiệp thạc sĩ triết học tại trường này năm 1999 trên với luận văn về đạo đức trong sinh viên học sinh thành phố Hồ Chí Minh
  • Thực chất, cái gọi là bằng cử nhân Triết học Mác – Lê nin chỉ là bằng cử nhân tuyên truyền. Học triết thì phải học cách phản biện, lật ngược vấn đề và mổ xẻ những góc tối của vấn đề tận đường tơ kẻ tóc. Học “Triết Mác Lê nin” chỉ chỉ nhắm mắt học thuộc lòng mấy giáo điều, không được lật ngược vấn đề, không được mổ xẻ quá sâu những góc tối của chủ nghĩa này.
  • Một luận văn viết về “đạo đức trong sinh viên học sinh thành phố” thì làm sao gọi là “luận văn triết học”? Đây chỉ là một luận văn xã hội học hay giáo dục học!
  • Thưởng dùng tiếng Việt sai. Chỉ nên nói “giới triết gia” hay “ngành triết học”, chẳng nên nói “giới triết học”.

2. VVT:

Ở nước ta, hơn 70 năm trước, vào năm 1949, khi trường Đảng Nguyễn Ái Quốc Trung ương ra đời, Tổ Triết học, tổ chức tiền thân của Viện Triết học thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh hiện nay, đã hình thành. Sau đó, năm 1959, Tổ Triết học thuộc Ủy ban Khoa học Nhà nước, tiền thân của Viện Triết học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam được thành lập. Đây là những tổ chức triết học đầu tiên ở nước ta.”

Nhận xét & góp ý:

  • Những thứ trường như “trường đảng Nguyễn Ái Quốc” chỉ là những thứ trường ăn hại. Trong hồi ký Chiều chiều nhà văn Tô Hoài từng thổ lộ là đã đi học trường đảng Nguyễn Ái Quốc một năm mà chẳng học thêm được cái gì trừ cách… làm giấm (nhờ một bạn học là cán bộ phụ nữ chỉ cho”.
  • Trong hồi ký Đồng bằng nhà văn Nguyên Ngọc kể năm 1975 từ khu Năm ra Hà Nội, ông được nguyên Bí thư tỉnh ủy Quảng Nam – Đà Nẵng Hồ Nghinh căn dặn ra ngoài làm gì thì làm, không được đi học trường Nguyễn Ái Quốc, vì đo học trường này chỉ tổ “đần” thêm thôi!
  •  

3. VVT: “Tuy nhiên, từ rất sớm, dân tộc ta đã phần nào tiếp cận được tinh hoa triết học của nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia ở phương Đông. Khi một số Trung tâm khoa học châu Âu có mặt tại Hà Nội, thông qua quan hệ với các Trung tâm này, chúng ta không chỉ tiếp nhận được nội dung của nhiều học thuyết, nhiều khuynh hướng triết học mà còn tiếp nhận được cả phương pháp tư duy triết học ở trình độ cao của nhân loại. Những yếu tố trên góp phần không nhỏ vào sự phát triển tư tưởng triết học Việt Nam, song, về cơ bản, sự phát triển tư tưởng triết học Việt Nam là kết quả sự kế thừa và phát triển trí tuệ uyên bác của cha ông ta từ thực tiễn hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.

Thưa các đồng chí,

Tôi bày tỏ sự tán đồng và chia sẻ ý tưởng của Hội ta. Việt Nam chưa có nền triết học sánh ngang với triết học Hy Lạp – La Mã bề thế, với triết học Ấn Độ sâu sắc, với triết học Trung Hoa thâm thúy, hay với triết học duy lý của Tây Âu; nhưng Việt Nam, bên cạnh nền văn hóa vật thể ẩn chứa vô vàn những triết lý hành động, còn có nền văn hóa Văn – Sử – Triết bất phân, có sự kết hợp tinh tế giữa các loại hình văn hóa với tư duy tín ngưỡng dân tộc… Sự kết hợp có phần độc đáo này cùng quá trình lao động sản xuất, chống thiên tai, chống giặc ngoại xâm đã sản sinh ra nhiều tư tưởng triết học Việt Nam mang tính chân lý bền vững như: “Khoan thư sức dân là kế dài lâu, sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước” của Trần Hưng Đạo, “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” của Nguyễn Trãi, “Giữ gìn đất nước, không để kẻ nào lấy được mất một thước núi, một tấc sông” của Lê Thánh Tông, “Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” của Phan Châu Trinh, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh…

Nhận xét & góp ý:

  • Thừa thải, lủng củng, tự mâu thuẫn với chính mình và hoàn toàn vô căn cứ.
  • Nền “văn hóa Văn – Sử – Triết” bất phân đó là gì, sao không nói rõ ra?
  • Có thể một câu ca dao, một câu chuyện ngụ ngôn hay một suy nghĩ, một đường lối của một nhân vật lịch sử Việt phảng phất một ý nghĩa triết lý nào đó, tuy nhiên bấy nhiêu không thể đủ để làm nên một “nền triết học”.

4. VVT: Gần một thế kỷ qua, kể từ khi triết học Mác – Lênin được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam truyền bá ở Việt Nam, tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn của nó đã được giới lý luận và các nhà hoạt động xã hội Việt Nam nhanh chóng tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo.”

Sự tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo này đã góp phần làm cho triết học Mác – Lênin trở thành thế giới quan, phương pháp luận định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của dân tộc, kể cả thực tiễn lao động xây dựng đất nước, xây dựng phát triển văn hóa, con người, tiến hành và kết thúc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, đưa đất nước vững bước vươn tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Góp ý & nhận xét:

  • Nói “triết học Mác – Lênin có tính nhân văn” thì chẳng khác gì nói “Trung Quốc luôn luôn bảo vệ trận tự trên Biển Đông”.
  • Triết học Mác Lê chưa bao giờ là “thế giới quan, phương pháp luận định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của dân tộc” cả.
  • Nó chi là “thế giới quan, phương pháp luận định hướng cho hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn” của đảng cộng sản, dân tộc Việt Nam chính là nạn nhân.
  •  

5.VVT: Nhìn lại gần 35 năm qua, khi chúng ta thực hiện công cuộc đổi mới, trước hết là đổi mới tư duy, đã đem lại cho chúng ta nhận thức đầy đủ hơn, đúng đắn hơn về chủ nghĩa tư bản, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên xã hội chủ nghĩa, về thời kỳ quá độ và những đặc trưng của xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng, về thực chất của bóc lột và kinh tế tư nhân, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về vai trò của văn hóa, con người đối với tiến bộ xã hội, v.v…

Có thể khẳng định rằng, sự nhận thức đầy đủ hơn, đúng đắn hơn này trước hết là nhờ tư duy triết học. Tư duy biện chứng duy vật đã cung cấp cơ sở lý luận làm thay đổi phương thức phát triển đất nước – từ chỗ cứng nhắc, chủ quan, giáo điều sang phương thức mềm dẻo hơn, thực tế hơn, năng động hơn, sáng tạo hơn. Tư duy này đã định hướng đưa nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội, ra khỏi tình trạng một nước nghèo và từng bước vững chắc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Nhận xét & góp ý:

  • Tự mâu thuẫn với mình. Chính cái “tư duy biện chứng duy vật” kia đã đẻ ra chủ nghĩa xã hội, thứ đã đẩy đất nước vào vòng khủng hoảng, khốn cùng. Rồi cũng lại chính nó làm những kẻ tin theo chủ nghĩa xã hội “nhận thức đầy đủ hơn”, thế là thế nào?
  • Thực chất, Võ văn Thưởng đã mang con trâu đặt trước cái cày, lập lờ nguyên nhân của việc đổi mới.
  • Thứ nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội trong thập niên 1980. Thứ hai là Liên Xô cũng bị khủng hoảng kinh tế- xã hội nên phải đổi mới.
  • Cái gọi là tư duy này thực chất là cảnh cùng đường, đói đầu gối phải bò!
  •  

6. VVT: Tầm quan trọng của tư duy triết học và thành tựu của ngành Triết học Việt Nam đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là rất lớn và rất đáng trân trọng, song trước nhu cầu phát triển của xã hội, nhiều vấn đề trong lĩnh vực này còn làm cho chúng ta phải suy nghĩ và nỗ lực nhiều hơn. Chẳng hạn, hiện nay ở nước ta, ngoài triết học Mác – Lênin, các triết học khác ít được nghiên cứu sâu, thậm chí ít được biết đến; trong hệ thống giáo dục quốc dân, việc giảng dạy và nghiên cứu triết học nhiều năm gần đây chưa đạt chất lượng cao; hiện nay chưa có nhà triết học Việt Nam nào đủ nổi tiếng hoặc đạt đến trình độ chuyên gia, trong sự so sánh với các nhà triết học thế giới và khu vực, mặc dù Việt Nam đã có đại diện trong Ủy ban điều hành Liên đoàn các Hội triết học thế giới; sự gắn kết giữa triết học với chính trị và với thực tiễn vẫn còn nhiều vấn đề cần phải giải quyết…

Nhận xét & góp ý:

  • Thế thì phải đa đảng, đa nguyên!

7. VVT: […] Trước hết, với tinh thần kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Hội Triết học có nhiệm vụ quan trọng là nghiên cứu khoa học, tư vấn chính sách, phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền và chức năng để đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực có tri thức và tư duy triết học cao, đồng thời góp phần nâng cao hiểu biết của nhân dân về triết học, cung cấp cơ sở lý luận triết học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Nhận xét & góp ý:

  • Đã đòi hỏi phải “kiên định” với chủ nghĩa Mác – Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn yêu cầu phải “phát triển sáng tạo” là nghĩa làm sao?
  •  
  • Triết học nghiên cứu những vấn đề chung và căn bản của con người, thế giới và vị trí của con người trong thế giới, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết học đào sâu những vấn đề trên bằng tính phê phán, mang tinh thần duy lý,
  • Trong tiếng Anh, từ “philosophy” (triết học) xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại có nghĩa là “tình yêu đối với sự thông thái”. Một “nhà triết học” được hiểu theo nghĩa tương phản với một “nhà ngụy biện”. Trong xã hội cổ đại tại Hy Lạp, những nhà “ngụy biện” hay “những người nghĩ mình thông thái” thường đi khắp nơi diễn thuyết giảng trổ tài hùng biện cho giới quý tôc, còn các “triết gia” là “những người yêu thích sự thông thái” không sử dụng sự thông thái của mình với mục đích chính là kiếm tiền.
  • Nhân dân mà “hiểu biết về triết học” thì thứ “thạc sĩ triết học” như Thưởng chỉ có nước chạy xe ôm mà sống!
  •  

8. VVT: Thứ hai, Hội Triết học đẩy mạnh nghiên cứu tinh hoa triết học thế giới, nghiên cứu tư tưởng triết học Việt Nam, nghiên cứu và phát triển Triết học Mác – Lênin, tư tưởng triết học Hồ Chí Minh nhằm cung cấp cơ sở lý luận triết học cho đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đặc biệt với các mục tiêu cụ thể và to lớn mà Tổng Bí thư – Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra trong bài viết “Chuẩn bị và tiến hành thật tốt Đại hội XIII của Đảng, đưa đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới” là: Phấn đấu đến năm 2025 là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, là nước đang phát triển, cơ bản có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; và đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Nhận xét & góp ý:

  • Đến đây Thưởng lại thò cái đuôi chuột: triết học phải “công tác” theo chỉ thị của ngành tuyên giáo!
  • Nhưng nếu “nền tảng tư tưởng của Đảng ta” đi ngược với “lợi ích của dân tộc, đất nước” thì sao?.
  •  

9. VVT: Thứ ba, Hội Triết học có nhiệm vụ góp phần làm sáng tỏ vai trò của triết học Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với tính cách là bộ phận cấu thành quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng ta, là ngọn cờ tư tưởng và là hạt nhân lý luận của thế giới quan và phương pháp luận cho mọi hoạt động lý luận và thực tiễn. Từ góc độ lý luận triết học, Hội triết học cần đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm triết học sai trái, thù địch, đi ngược lại với lợi ích của dân tộc, đất nước.

Thứ tư, Hội Triết học phải trở thành mái nhà chung của các thế hệ những nhà nghiên cứu, giảng dạy triết học của cả nước; cái nôi vun đắp, bồi dưỡng, để Việt Nam có những triết gia, chuyên gia nghiên cứu triết học tầm cỡ khu vực và thế giới; là nơi tham gia tổ chức các diễn đàn học thuật uy tín về triết học cả trong và ngoài nước.

Với bề dày tri thức và kinh nghiệm, với lòng nhiệt huyết của các đồng chí, tôi hy vọng và tin tưởng rằng, tới đây, sau khi Hội Triết học đi vào hoạt động, ngành Triết học Việt Nam sẽ có những bước phát triển vượt bậc, cống hiến cho Tổ quốc nhiều thành tựu hơn, để lại nhiều dấu ấn tích cực hơn, đậm nét hơn trong thực tiễn và trong nhận thức của xã hội.

Nhận xét & góp ý:

  • Nhưng qua những lập luận trên và mớ tín điều cũ kỷ như mớ giẻ rách này, chúng ta thấy rằng ông thạc sĩ triết học Võ Văn Thưởng vẫn chưa đạt tới trình độ của một nhà triết học cấp phường; và triết gia ngỏ hẽm này đang mơ tưởng chuyện tạo ra những triết gia tầm cỡ thế giới, nghe như là làm hề!

Related posts