Thanh Hải
Trong bài bình luận được đăng hôm 19/10 trên Thời báo Epoch Times, ông Stu Cvrk cho rằng nền kinh tế Trung Quốc đã hưởng lợi từ hoạt động gián điệp kinh tế có chủ đích trong nhiều thập kỷ.
Ông phân tích, chiến lược kinh tế dài hạn của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) là nhằm thay thế trật tự thời hậu Đệ nhị Thế chiến do Hoa Kỳ thống trị, do Liên Hiệp Quốc và khuôn khổ tiền tệ quốc tế Bretton Woods thiết lập, bằng một “hệ thống tư bản độc tài” do Bắc Kinh kiểm soát. Đặc điểm chính của chủ nghĩa tư bản độc tài được định nghĩa ở đây là “một mặt có sự hiện diện của nền kinh tế tư bản, đi cùng với sự vắng mặt hoặc xói mòn của dân chủ và tự do dân sự”.
Chiến lược này bao gồm việc thâm nhập, hợp tác, và tận dụng các tổ chức quốc tế để tiếp cận các nguồn lực, đầu tư trực tiếp của ngoại quốc, công nghệ tiên tiến, và các phương pháp của phương Tây để ngành công nghiệp Trung Quốc có thể vượt lên trước mọi đối thủ. Để thực hiện chiến lược này, ĐCSTQ đã dành những nguồn lực to lớn, bao gồm cả nhân lực và tiền bạc, để tiến hành hoạt động gián điệp kinh tế.
Gián điệp kinh tế liên quan đến việc đánh cắp bí mật thương mại, thông tin độc quyền, và/hoặc sở hữu trí tuệ nhằm tạo lợi thế cho các công ty trong nước trong khi gây bất lợi cho các đối thủ cạnh tranh ngoại quốc.
Theo một báo cáo công khai từ Trung tâm Phản gián và An ninh Quốc gia, các mục tiêu chiến lược của Trung Quốc trong việc hiện đại hóa quân đội, phát triển mô hình kinh tế dựa trên công nghệ và đạt được năng lực tổng thể toàn diện để thống trị địa chính trị trên toàn thế giới phụ thuộc rất nhiều vào các hoạt động gián điệp kinh tế đang diễn ra rộng khắp.
1. Ngành tình báo
Các điệp viên, gián điệp, và nhà phân tích trong và/hoặc được kiểm soát bởi Bộ An ninh Nhà nước (MSS) và tất cả các thành phần phục vụ của Quân Giải phóng Nhân dân (PLA) đều được dành cho các hoạt động thu thập thông tin tình báo suốt ngày đêm. MSS phải chịu trách nhiệm trước cả Quốc vụ viện Trung Quốc – cơ quan hành chính chính của chế độ Trung Quốc – và Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị ĐCSTQ trong việc tiến hành các hoạt động thu thập thông tin tình báo trên toàn thế giới.
Theo tỷ phú Trung Quốc Guo Wengui, có hơn 25,000 sĩ quan tình báo Trung Quốc và hơn 15,000 người Mỹ được tuyển dụng đang hoạt động cho Trung Quốc tại Hoa Kỳ.
Gián điệp mạng là một nhiệm vụ quan trọng trong việc chiếm được các bí mật kinh tế. Theo một báo cáo từ Ủy ban Đánh giá Kinh tế và An ninh Hoa Kỳ – Trung Quốc, “Thâm nhập mạng cho phép các doanh nghiệp Trung Quốc – trong một số trường hợp hoạt động theo chỉ đạo của Trung Cộng hoặc với sự hỗ trợ của chính phủ – truy cập thông tin về các hoạt động độc quyền và thông tin tài trợ dự án của các công ty Hoa Kỳ, cũng như đánh cắp IP và công nghệ”.
2. Những người thu thập thông tin phi truyền thống
MSS khai thác/ép buộc các doanh nhân và nhà khoa học Trung Quốc ăn cắp và báo cáo những bí mật có được trong các giao dịch kinh doanh của họ với người ngoại quốc. Kể từ năm 2015, các nỗ lực thu thập phi truyền thống ngày càng được kiểm soát bởi Phòng Công tác Mặt trận Thống nhất (UFWD), cơ quan dưới quyền MSS phụ trách phối hợp thu thập thông tin tình báo.
Theo blog power 3.0, các sứ mệnh đối ngoại mới được bổ sung liên quan đến “chiêu nạp giới tinh hoa, quản lý thông tin, thuyết phục, và truy nhập thông tin và các nguồn lực chiến lược và … như một phương tiện tạo điều kiện cho hoạt động gián điệp”.
Phòng Công tác Mặt trận Thống nhất (UFWD) cung cấp vỏ bọc cho các nhân viên tình báo (gián điệp) hoạt động dưới sự quản lý của Bộ An ninh Nhà nước. Các nhánh của UFWD tiếp cận các Viện Khổng Tử, chương trình Ngàn nhân tài, các dịch vụ tin tức Trung Quốc, Văn phòng các vấn đề Hoa kiều, và Cơ quan Quản lý Không gian mạng của Trung Quốc. Tất cả những hoạt động này đều được kiểm soát chặt chẽ nhằm gây ảnh hưởng đến dư luận ngoại quốc và lấy lòng bạn bè cho các chính sách của ĐCSTQ.
3. Khai thác thông qua các quy định và pháp luật
Các luật và quy định của Trung Quốc thường tạo điều kiện cho hành vi trộm cắp công nghệ như một cái giá phải trả với các công ty ngoại quốc để được hoạt động tại Trung Quốc. Bắc Kinh cũng đang cố gắng kiểm soát quá trình chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế bằng cách thay thế Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc tế (ISO) bằng “Tiêu chuẩn Trung Quốc 2035”. Khi kiểm soát các tiêu chuẩn và công nghệ, “Tiêu chuẩn Trung Quốc 2035” sẽ giúp chính quyền Trung Quốc tiếp cận công nghệ do ngoại quốc phát triển dễ dàng hơn nhiều.
4. Các công ty bình phong
Các công ty bình phong được thành lập ở ngoại quốc để xoá vết về sự tham gia trực tiếp của Trung Quốc trong việc đạt được các công nghệ bị kiểm soát xuất cảng. “Công ty bình phong” có thể là một thuật ngữ gây hiểu lầm, vì hầu như tất cả các công ty do Trung Quốc sở hữu đều có nghĩa vụ thực hiện hoạt động gián điệp kinh tế thay mặt cho Bắc Kinh.
Theo Học viện Chính sách chiến lược của Úc, chỉ có một mức độ tách biệt rất nhỏ giữa vô số các công ty Trung Quốc và PLA, vì Bắc Kinh đã phát triển và thực hiện chiến lược “tối đa hóa mối liên kết giữa quân đội và khu vực dân sự để xây dựng sức mạnh kinh tế và quân sự của Trung Quốc”.
5. Liên doanh
Các liên doanh được sử dụng để lôi kéo các công ty ngoại quốc hoạt động tại Trung Quốc. Một phần của các thỏa thuận liên doanh liên quan đến việc chuyển giao công nghệ cho các đối tác Trung Quốc. Về bản chất, các quy định liên doanh của Trung Quốc cuối cùng yêu cầu các đối tác ngoại quốc về cơ bản phải đồng ý chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ và công nghệ của họ để tiếp cận thị trường Trung Quốc.
6. Quan hệ đối tác nghiên cứu
Hợp tác với các nhà khoa học ngoại quốc trong các dự án nghiên cứu giúp tiếp cận trực tiếp với các công nghệ tiên tiến. Một ví dụ điển hình là việc Trung Quốc thành lập Liên minh Internet công nghiệp cho “các sáng kiến sản xuất hợp tác và internet”, tập trung vào việc tận dụng và tích hợp các công nghệ ở trong nước và đặc biệt là của ngoại quốc để “đẩy nhanh sự phát triển của Internet công nghiệp” – [họ] không phải ngẫu nhiên dẫn đầu thế giới trong phát triển IPv6. Các quan hệ đối tác như là “mua một tặng một” khi chính phủ Hoa Kỳ lại cấp kinh phí tài trợ cho các nghiên cứu! Ví dụ, sự hợp tác giữa Liên minh Sức khỏe Sinh thái của ông Peter Daszak và Viện Virus Vũ Hán đã sử dụng kinh phí do Viện Y tế Quốc gia Hoa Kỳ cung cấp.
7. Hợp tác học thuật
Các mối quan hệ qua lại với các trường đại học ngoại quốc được khuyến khích để tiếp cận với các công nghệ ngoại quốc. Một khía cạnh quan trọng là việc thúc đẩy trao đổi giáo sư và sinh viên quốc tế, đan xen với chương trình Ngàn Tài năng, nhằm thu hút các nhà khoa học, kỹ sư, và giảng viên ngoại quốc để Bộ Giáo dục và Bộ An ninh Nhà nước khai thác cho mục đích gián điệp.
Các phương diện khác liên quan đến chuyển đổi tín chỉ và công nhận bằng cấp để khuyến khích trao đổi học thuật sâu hơn và hợp tác khoa học giữa các trường cao đẳng và đại học Trung Quốc và ngoại quốc.
8. Đầu tư vào Khoa học và Công nghệ
ĐCSTQ đầu tư vào phát triển Khoa học và Công nghệ (KH & KN) ngoại quốc như một cơ chế để lấp đầy lỗ hổng công nghệ trong các lĩnh vực kỹ thuật của Trung Quốc. Các mục tiêu KH & KN bao gồm: công nghệ thông tin, an ninh mạng, kỹ thuật sản xuất tiên tiến, công nghệ quốc phòng các loại, và công nghệ năng lượng (đặc biệt là công nghệ “xanh”).
9. Sáp nhập và mua lại
Trung Quốc sử dụng nguồn vốn đầu tư trực tiếp ngoại quốc để đầu tư và mua lại các công ty phương Tây nhằm mục đích có được các công nghệ tiên tiến và sở hữu trí tuệ. Họ đã thực hiện các thương vụ mua lại chiến lược tại các công ty ngoại quốc quan trọng để giành thị phần và tiếp cận các công nghệ quan trọng, cũng như gây ảnh hưởng đến văn hóa.
10. Các chương trình tuyển dụng nhân tài
Các nhà khoa học và kỹ sư ngoại quốc được cấp học bổng nghiên cứu và các kỳ nghỉ có trả lương để (Trung Quốc) có được vốn tri thức và đổi mới công nghệ của họ. Mục tiêu của ĐCSTQ là tuyển dụng các chuyên gia, doanh nhân Hoa kiều và ngoại quốc trong các lĩnh vực kinh tế then chốt đến giảng dạy và làm việc tại Trung Quốc.
Kết luận, ông Stu Cvrk nhận định ĐCSTQ có một nỗ lực bền bỉ trong việc triển khai hoạt động gián điệp kinh tế, được phối hợp chặt chẽ và liên tục nhằm vào các ngành, các công nghệ và sở hữu trí tuệ do Hoa Kỳ phát triển. Chiến dịch này là một yếu tố quan trọng trong việc Bắc Kinh đeo đuổi vị trí thống trị kinh tế thế giới và là động lực chính thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế liên tục của Trung Quốc – thường bằng chi phí trực tiếp của các đối thủ cạnh tranh ngoại quốc.