Lê Minh
Các container vận chuyển nằm cạnh các tuyến đường sắt chạy vào cảng Mombasa ở Mombasa, Kenya, hôm 01/09/2018. Sáng kiến Vành đai và Con đường của Trung Quốc có mục đích phục hồi và mở rộng các tuyến đường thương mại kết nối Trung Quốc với Trung Á, Trung Đông, Phi Châu và châu u thông qua mạng lưới đường sắt, cảng, đường ống, lưới điện và đường cao tốc được nâng cấp hoặc xây mới. (Ảnh: Luis Tato / Bloomberg qua Getty Images)
Do gặp khó khăn khi vay tiền từ các tổ chức cho vay truyền thống, rất nhiều quốc gia kém phát triển phải vay tiền từ Trung Quốc. Với các điều khoản khắc nghiệt, Trung Quốc sau đó chiếm quyền kiểm soát tài sản hoặc nguồn thu của các các nước đã vướng vào bẫy nợ. Mỹ cần tìm cách giúp đỡ những quốc gia gặp khó khăn trước khi các nước này bị Trung Quốc tiếp cận.
Trung Quốc là một chủ nợ trá hình thông qua viện trợ
Để thực hiện chiến lược thống trị toàn cầu, Trung Quốc đã trở thành một trong những nước cho vay lớn nhất trên thế giới đối với các quốc gia kém phát triển nhất, với lãi suất cao hơn và yêu cầu tài sản thế chấp dưới dạng cảng, sân bay, khoáng sản, và doanh thu.
Viện trợ nước ngoài chiếm 1% trong ngân sách liên bang Mỹ trị giá 4,05 nghìn tỷ USD, một nửa số tiền này được chi cho xóa đói giảm nghèo. Mỹ có thể viện trợ dưới nhiều hình thức hỗ trợ quốc tế, nhưng viện trợ của Mỹ có vẻ thực sự là sự trợ giúp. Với Trung Quốc, ranh giới giữa viện trợ và đầu tư là không rõ ràng. Trung Quốc tự tuyên bố nước này là một trong những nhà viện trợ lớn nhất, nhưng sẽ chính xác hơn nếu gọi nước này là một chủ nợ khổng lồ.
Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) có một chiến lược viện trợ tập trung đằng sau các chương trình xúc tiến thương mại và đầu tư nước ngoài. Mặt khác, Mỹ dường như không có một chiến lược viện trợ thống nhất hoặc có tính hệ thống. Hơn nữa, thương mại và đầu tư của Mỹ được thực hiện bởi khu vực tư nhân, không có hoặc với rất ít chỉ đạo của chính phủ.
Ngoài các khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản cho vay không tính lãi, ĐCSTQ coi các khoản vay ưu đãi là viện trợ. Bắc Kinh liên kết viện trợ, cho vay, tín dụng xuất khẩu và viện trợ quân sự với nhau, mặc dù những khoản này không được coi là viện trợ theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD).
Ngoại giao bẫy nợ là thứ vũ khí lợi hại của Trung Quốc
Hoạt động viện trợ / đầu tư của ĐCSTQ đã trải qua được gần 60 năm. Năm 1964, Thủ tướng Chu Ân Lai khi đó đã đến thăm Ghana. Ông đã thiết lập mô hình viện trợ vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay của Trung Quốc, theo đó các dự án do Trung Quốc tài trợ phải sử dụng thiết bị, vật liệu và hỗ trợ kỹ thuật từ Trung Quốc.
Sáng kiến Vành đai và Con đường (BRI, còn được gọi là “Một vành đai, một con đường”) được ĐCSTQ thông qua vào năm 2013 là ví dụ rõ nét gần đây nhất về cách Bắc Kinh phát triển một kế hoạch dài hạn, sau đó kết hợp vào đó các cột mốc ngắn hạn và trung hạn. BRI tạo ra một sự kết hợp phức tạp giữa đầu tư, thương mại, tuyên truyền, quyền lực mềm, việc gây sức ép và địa chính trị, nhằm đưa Trung Quốc trở thành cường quốc hàng đầu thế giới vào năm 2035.
Ngoại giao bẫy nợ (Trung Quốc cho các nước kém phát triển vay, sau đó chiếm quyền sở hữu các tài sản của các nước đó khi họ không trả được nợ) là một công cụ lợi hại trong kho vũ khí của ĐCSTQ. Giống như những con báo tìm ra và rình rập những con linh dương ốm yếu trong đàn, Bắc Kinh tìm kiếm những quốc gia gần vỡ nợ. Đây là những nền kinh tế nhỏ chưa phát triển đang cần vay tiền để tránh sự sụp đổ. ĐCSTQ sẽ cung cấp cho họ các khoản vay với các điều khoản khắc nghiệt. Những điều khoản này cuối cùng sẽ giúp Bắc Kinh giành quyền kiểm soát tài sản hoặc nguồn thu của các đất nước này.
Nghiên cứu về hoạt động cho vay của Trung Quốc cho thấy phần lớn các khoản cho vay được thực hiện bởi các tổ chức nhà nước chứ không phải trực tiếp từ chính quyền. Tính tổng cộng các khoản cho vay từ chính quyền và do chính quyền hậu thuẫn, Trung Quốc đang vượt qua Mỹ và các quốc gia phương Tây trong hoạt động cho vay đối với các nước nghèo nhất thế giới, với tỷ lệ 2/1. Ngoài ra, ĐCSTQ thường tính lãi suất cao hơn, yêu cầu thời hạn trả nợ ngắn hơn và đòi hỏi tài sản thế chấp.
Tài sản thế chấp có thể là các cảng, chẳng hạn như Cảng Piraeus của Hy Lạp, Cảng Hambantota của Sri Lanka hoặc Cảng Gwadar của Pakistan. ĐCSTQ đã có quyền sở hữu hoặc kiểm soát đáng kể đối với các cảng này. Hoạt động đầu tư và viện trợ của Bắc Kinh nhắm vào các quốc gia có nguồn cung cấp tài nguyên như khoáng sản và kim loại và các quốc gia có vị trí chiến lược như Djibouti. ĐCSTQ hiện kiểm soát cảng hải quân Doraleh của Djibouti.
ĐCSTQ tuyên bố rằng Trung Quốc không phải là nước cho vay đầu tiên hoặc lớn nhất đối với nhiều quốc gia bị vỡ nợ; tuy nhiên, phương Tây phản bác lại rằng chính các khoản vay từ Trung Quốc đã đẩy các nước này vào khủng hoảng.
Các quốc gia này tìm cách vay tiền từ Trung Quốc vì IMF, Ngân hàng Thế giới, Paris Club (một nhóm không chính thức các quốc gia chủ nợ với nền kinh tế và tiềm lực tài chính mạnh) và các tổ chức cho vay truyền thống khác đều cho rằng các quốc gia này sắp vỡ nợ. Trong nhiều trường hợp, các quốc gia này tìm cách vay tiền để trả lãi cho các khoản vay trước đó. Các bên cho vay truyền thống từ chối cho các quốc gia này vay tiền vì sợ sẽ làm trầm trọng hơn tình hình kinh tế của các nước này.
Trong khi đó, khoản nợ mà các nước nghèo nhất thế giới nợ Trung Quốc đã tăng gấp 3 lần trong giai đoạn 2011-2020. Hôm 22/04, South China Morning Post đưa tin rằng cả IMF và Ngân hàng Thế giới đã cảnh báo về mức nợ kỷ lục toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Vì lý do này, Mỹ và các quốc gia phương Tây khác đã cáo buộc ĐCSTQ thực hiện chính sách ngoại giao bẫy nợ và chiếm dụng các tài sản quan trọng. Bắc Kinh đã bác bỏ những cáo buộc này.
Mỹ cần giúp đỡ các quốc gia khó khăn trước khi Trung Quốc tiếp cận các nước này
Vào năm 2019, dưới thời chính phủ của ông Trump, Tập đoàn Tài chính Phát triển Quốc tế Mỹ (DFC) đã được thành lập. Được tạo ra để chống lại ảnh hưởng của ĐCSTQ, DFC cung cấp các khoản vay để giúp các quốc gia đang phát triển thúc đẩy cải thiện cơ sở hạ tầng. Theo tờ Financial Times của Ấn Độ, viện trợ tài chính và quân sự của Mỹ nên đi đôi với chính sách thương mại toàn diện. Nếu không đi kèm với chính sách thương mại, các quốc gia nước ngoài có thể đặt câu hỏi về cam kết của Mỹ đối với một mối quan hệ lâu dài. Điều này đặc biệt đúng ở châu Phi, châu Mỹ Latinh và châu Á, nơi rất cần đầu tư và thương mại và là nơi Trung Quốc kết hợp các mục tiêu chiến lược và quân sự với các quyết định thương mại và đầu tư của mình.
Hội đồng Đại Tây Dương đã khuyến nghị vào ngày 25/04 rằng Mỹ nên áp dụng nhiều hơn tư duy của khu vực tư nhân. Washington nên tìm cách phát hiện ra những quốc gia nước ngoài cần và muốn gì, sau đó cung cấp viện trợ theo hướng giúp giải quyết các vấn đề của các quốc gia trước khi ĐCSTQ tiếp cận các nước này. Hơn nữa, Mỹ cần thống nhất hơn nữa hoạt động của các cơ quan chính phủ với tất cả các cơ quan cùng kết hợp hoạt động đồng thời cùng hợp tác với khu vực tư nhân.
Tác giả – Tiến sĩ Antonio Graceffo – đã có hơn 20 năm làm việc tại châu Á. Ông tốt nghiệp Đại học Thể thao Thượng Hải và có bằng MBA của Đại học Giao thông Thượng Hải; và hiện là Giáo sư và nhà phân tích kinh tế Trung Quốc. Ông viết bài cho nhiều phương tiện truyền thông quốc tế. Một số cuốn sách về Trung Quốc của ông gồm: Beyond the Belt and Road: China’s Global Economic Expansion (Đằng sau Vành đai và Con đường: Sự mở rộng kinh tế toàn cầu của Trung Quốc); và A Short Course on the Chinese Economy (Khóa học ngắn hạn về kinh tế Trung Quốc).
Lê Minh
Theo The Epoch Times