Lam Giang
Có khả năng Trung Quốc sẽ tiến hành một cuộc tấn công trong tương lai gần nhắm vào biên giới tranh chấp với Ấn Độ nhiều hơn là tấn công Đài Loan, theo tác giả của một cuốn sách mới phát hành “WARTIME: The World in Danger” cho hay.
Ấn Độ và Trung Quốc đang xây dựng lực lượng quân sự dọc theo biên giới tranh chấp ở Ladakh khi 15 vòng đàm phán không đạt được kết quả nào. Trước đó, một cuộc xung đột đẫm máu ở Galwan năm 2020 khiến cả hai quốc gia này đều gánh chịu thương vong đáng kể.
Trong bối cảnh Nga xâm lược Ukraine, ngày càng có nhiều lo ngại về khả năng chính quyền Trung Quốc tiến hành một cuộc tấn công tương tự nhằm vào Đài Loan.
Ông Rajiv Dogra, một cựu quan chức ngoại giao cấp cao của Ấn Độ và là tác giả cuốn sách: “WARTIME: The World in Danger”, (Tạm dịch: Thời chiến: Thế giới đang gặp nguy hiểm), nhận định rằng cuộc khủng hoảng Ukraine hiện tại và mối đe dọa về một cuộc chiến tranh rộng lớn hơn sẽ thúc đẩy tham vọng bá chủ toàn cầu của Bắc Kinh.
“Trong khi Mỹ đang bận rộn chống lại Nga ở Ukraine, Trung Quốc đang gia tăng đều đặn dấu ấn của mình trên phạm vi toàn cầu. Điều đáng lo ngại hơn nữa không chỉ là khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương, hay Đài Loan, mà mối nguy hiểm lớn hơn đang tồn tại ở biên giới phía bắc của Ấn Độ”, ông Dogra, tác giả của bảy cuốn sách, trong đó có một cuốn từng đoạt giải về Afghanistan, nói với The Epoch Times trong một cuộc phỏng vấn độc quyền vào ngày 28/6.
Ông Dogra cho biết, Trung Quốc nhìn thấy mình ở một bước ngoặt lịch sử trong một trò chơi chiến lược, nơi các viên xúc xắc được tung ra theo hướng có lợi cho họ. Ông tin rằng sự tập trung của chính quyền ông Biden vào Ukraine là “cố chấp và ám ảnh”. Điều đó có nghĩa là Hoa Kỳ và phương Tây đang vắt kiệt sức lực trong một cuộc chiến có “kết quả không chắc chắn ở Ukraine”. Ông tin rằng, chính điều này đã mang lại lợi ích cho ĐCSTQ.
“Việc ông Biden theo đuổi mục tiêu duy nhất là làm suy yếu nước Nga sẽ từ từ dẫn đến trì trệ, suy giảm kinh tế và gia tăng tỷ lệ thất nghiệp ở châu Âu. Do bị phân tâm bởi Ukraine, Mỹ đã không đưa ra loại lựa chọn chính sách đối ngoại đúng đắn từng khiến nước này hoan nghênh trong một thời đại trước đây. Như cựu ngoại trưởng Kissinger đã nói gần đây, ‘… đối với phương Tây, việc hạ bệ Vladimir Putin không phải là một chính sách”‘, ông Dogra, cựu đại sứ Ấn Độ tại Romania, Ý và San Marino, đồng thời là cựu bộ trưởng của Cao ủy Ấn Độ ở London, cho biết đó là bằng chứng ngoại phạm.
‘Cánh cửa cơ hội’ của Bắc Kinh
Theo ông Dogra, tình hình diễn ra trên thế giới trong bối cảnh này là “cơ hội” mà Trung Quốc đã chờ đợi từ lâu, và mối đe dọa chiến tranh trong tương lai nên được nhìn nhận từ lăng kính này.
Nếu như ông Biden thực sự nghiêm túc về việc bảo vệ Đài Loan và đảm bảo tự do hàng hải, thì một chiến lược khôn ngoan đòi hỏi Hoa Kỳ phải bố trí các nguồn lực quân sự của mình ở Thái Bình Dương một cách “đầy đủ” – nhưng không phải vậy, tác giả nói.
“Trước sự ngạc nhiên của nhiều người, Hội nghị thượng đỉnh NATO gần đây đã thông báo về việc tăng cường triển khai các lực lượng Mỹ ở châu Âu, bất chấp sự thừa nhận rộng rãi của Mỹ rằng thách thức chiến lược lớn nhất của họ đến từ Trung Quốc! Trên thực tế, châu Á sẽ là một thị trường lớn hơn nhiều đối với Mỹ trong thập kỷ tới so với bất kỳ khu vực nào khác trên thế giới”, ông Dogra cảnh báo.
Sự hiện diện quân sự tăng cường của Hoa Kỳ ở châu Âu bao gồm nhiều tàu khu trục hải quân hơn đóng tại Tây Ban Nha, hai phi đội máy bay chiến đấu F-35 đóng tại Vương quốc Anh và trụ sở quân sự thường trực ở Ba Lan cho Quân đoàn 5 Hoa Kỳ, ông Biden cho biết tại một cuộc họp báo ở Tây Ban Nha vào ngày 29/6 rằng, “NATO cần thiết hơn bao giờ hết”.
Ông Dogra cho biết Bắc Kinh đang theo dõi “một cách hân hoan khi tin xấu lan tràn trên khắp thế giới”.
“Do các lệnh trừng phạt, các đường đứt gãy mới đang bắt đầu xuất hiện trong trật tự thế giới. Xung đột ở Ukraine càng kéo dài thì càng tốt theo quan điểm của Trung Quốc. Bắc Kinh sẽ hưởng lợi từ việc Nga trở thành tiền đồn của họ ở châu Âu. Và do đó, trong vị thế sẵn sàng đối đầu, cả Mỹ và Nga đều sẽ để phần còn lại của thế giới trở thành sân chơi của Trung Quốc. Đây là khoảnh khắc mà Trung Quốc đã chờ đợi từ lâu. Như Mao Trạch Đông từng nói, ‘Thiên hạ đại loạn là thời điểm tuyệt vời”‘.
Chiến tranh với Đài Loan
Theo ông Dogra, khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh trong tương lai gần đối với Đài Loan, một hòn đảo tự trị mà Bắc Kinh coi là một phần lãnh thổ của mình, là rất thấp. Bởi vì một cuộc chiến tranh giành Đài Loan sẽ gây ra những tổn thất kinh tế lớn cho Trung Quốc. Ngược lại, ông nói rằng một cuộc chiến tranh giữa Ấn Độ và Trung Quốc trên dãy Himalaya xa xôi sẽ chỉ giới hạn trong các hoạt động quân sự giữa hai quân đội.
Hơn nữa, bất chấp mối quan hệ căng thẳng của hai quốc gia, thương mại giữa Trung Quốc và Đài Loan vẫn tăng đều đặn. Năm 2018, hơn 100.000 doanh nhân Đài Loan đang hoạt động tại Trung Quốc đại lục, trong khi gần 40% hàng xuất khẩu của Đài Loan là sang Trung Quốc. Năm 2021, Đài Loan xuất khẩu hàng hóa trị giá 126 tỷ USD sang Trung Quốc trong khi con số này của Ấn Độ là 21 tỷ USD, ông Dogra cho biết.
“Trung Quốc cũng ý thức được rằng, có thể không dễ dàng giành chiến thắng trước Đài Loan. Nói đúng hơn, lực lượng của Bắc Kinh có thể vấp phải sự kháng cự gay gắt và kéo dài. Trung Quốc cũng sẽ cân nhắc nghiêm túc khả năng một cuộc chiến tranh giành Đài Loan có thể kéo theo Mỹ, Nhật Bản và Úc. Đó sẽ là một thách thức đáng gờm đối với Trung Quốc”, ông Dogra viết trong cuốn sách của mình.
Ông cho biết một cuộc tấn công của Trung Quốc vào Đài Loan cũng sẽ gặp phải những trở ngại về hậu cần, giống như đầm lầy hậu cần ban đầu khiến Nga mắc kẹt ở Ukraine.
“Trung Quốc cũng có thể vấp phải sự phản kháng nặng nề của quân đội và công chúng từ Đài Loan. Thậm chí, sau đó có thể mất nhiều năm để bình định Đài Loan về mặt quân sự và chính trị. Trong tất cả các khả năng, Trung Quốc sẽ không phát động một cuộc chiến tranh nhằm vào Đài Loan cho đến khi họ chắc chắn có thể giành chiến thắng ‘thần tốc’. Bởi vì không muốn phải hứng chịu ‘đổ máu’ trong một cuộc xung đột kéo dài và thậm chí có thể mất danh tiếng”, ông Dogra nói với The Epoch Times.
Tất nhiên, Bắc Kinh xác định sẽ khởi động một chiến dịch quân sự vào một thời điểm nào đó trong tương lai gần – đó là điều chắc chắn, ông Dogra nói. Ông nói thêm rằng khi nổ ra chiến tranh ở Đài Loan, Bắc Kinh sẽ thực hiện kế hoạch như vậy vào thời điểm mà Hoa Kỳ đang chiếm đóng ở nơi khác và không có thời gian để phản ứng một cách hiệu quả.
Theo cuốn sách của ông Dogra, Bộ Chỉ huy Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương của Mỹ ở Honolulu dự đoán phải mất tới 6 năm để Trung Quốc sẵn sàng thực hiện một cuộc tấn công như vậy, trong khi phía Đài Loan ước tính khung thời gian 3 năm trước khi Bắc Kinh tiến hành một cuộc xâm lược.
“Vì vậy, ngay cả khi Đài Loan vẫn là giải thưởng, Trung Quốc trước tiên có thể chọn một chiến thắng thần tốc ở nơi khác. Không cần tìm đâu xa cho một cuộc chiến như vậy, một cuộc chiến đã khẳng định chắc chắn nó là bá chủ châu Á. Và không giống như nhiều mối liên hệ với Đài Loan, Trung Quốc và Ấn Độ tốt nhất có thể được mô tả như những nước láng giềng xa xôi”, ông Dogra viết.
Chiến tranh với Ấn Độ
Quan hệ quân sự giữa Ấn Độ và Trung Quốc đang căng thẳng, và biên giới tranh chấp vẫn là điểm nhức nhối trong mối quan hệ của họ suốt bảy thập kỷ. Hơn nữa, ông Dogra cho biết mối quan hệ giữa hai nước láng giềng khổng lồ của châu Á đã trở nên mất cân bằng nghiêm trọng.
“Nó dẫn dắt Ấn Độ về mọi mặt — từ quân sự đến kinh tế, từ [hiệu quả] quản trị đến kỷ luật xã hội; từ sự tự tin quyết đoán đến [việc] theo đuổi mục tiêu một cách vô đạo đức”, ông viết.
Tuy nhiên, cũng có rất nhiều cơ hội. Hai quốc gia kết hợp sẽ là thị trường lớn nhất trong tương lai. Các thị trường trung lưu ở Trung Quốc và Ấn Độ có thể chiếm các khoản chi tiêu hàng năm lần lượt là 14,1 nghìn tỷ USD và 12,3 nghìn tỷ USD vào năm 2030. Ông Dogra nói rằng cả hai quốc gia sẽ được hưởng lợi từ một mối quan hệ hợp tác hơn là một mối quan hệ gây tranh cãi. Nhưng điều này có vẻ khó xảy ra vì tham vọng cạnh tranh của họ và viễn cảnh chiến lược trái ngược nhau.
“Cho đến lúc đó, Trung Quốc muốn làm suy yếu Ấn Độ, đưa nước này trở thành một bản sắc khu vực, giữ cho nước này phát triển về kinh tế và trên hết, khiến cho nước này bằng mọi cách ở trong tình trạng chiến tranh”, ông viết.
Một nhóm các nhà đầu tư tài chính quốc tế do ông Christopher Joye, nhà kinh tế tài chính hàng đầu người Úc, dẫn đầu, đã phát triển một mô hình dự đoán các cuộc xung đột trong tương lai và khả năng xảy ra chiến tranh. Mô hình của họ cho thấy xác suất xảy ra xung đột quân sự cường độ thấp trong thập kỷ tới giữa Trung Quốc và Ấn Độ là 55%, khoảng 46% giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ, và 30% giữa Hoa Kỳ và Nga.
Theo mô hình này, khả năng xảy ra chiến tranh toàn diện trong thập kỷ tới cũng là cao nhất giữa Ấn Độ và Trung Quốc ở mức 22%. Tỷ lệ này là 11% giữa Trung Quốc và Đài Loan và 12% giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ.
“Mô hình của Joye mang tính phân loại khi khẳng định rằng nguy cơ xảy ra xung đột hoặc chiến tranh giữa Ấn Độ và Trung Quốc là lớn nhất trên thế giới. Chúng ta nên thêm vào điều này khả năng xảy ra chiến tranh với Pakistan”, ông Dogra viết.
Ấn Độ và Pakistan đã nổ ra bốn cuộc chiến kể từ năm 1947, và hai nước láng giềng có chung đường biên giới dài, tranh chấp và đầy biến động.
Ông nói với The Epoch Times rằng Ấn Độ đang chịu áp lực rất lớn trong việc tăng chi tiêu quốc phòng.
“Một yếu tố thường được nói đến, mặc dù rất hay xảy ra, là khả năng Ấn Độ có thể phải đối mặt với một cuộc chiến tranh hai mặt trận với Trung Quốc và Pakistan. Điều có thể làm cho tình hình trở nên nguy hiểm hơn nữa là khả năng nó có thể trở thành một ‘cuộc chiến đơn phương’ dọc theo biên giới dài hơn 6.800 km [4.225 dặm] vì vũ khí trang bị và chiến thuật quân sự của Trung Quốc và Pakistan hiện nay chủ yếu là đồng bộ”, ông nói.
Ông Dogra tin rằng tình hình ở khu vực phía bắc Himalaya của Ladakh, nơi binh lính Ấn Độ và Trung Quốc đụng độ vào năm 2020, là “tồi tệ” hơn bất kỳ nơi nào khác trên thế giới bởi vì Ấn Độ và Trung Quốc là những người khổng lồ về quân sự. Xung đột của họ sẽ có hậu quả vượt xa chiến trường.
“Do đó, đã đến lúc Mỹ phải suy nghĩ nghiêm túc về các ưu tiên chiến lược của mình. Đây cũng là lúc các nhà tư tưởng trên thế giới phải suy ngẫm về việc thế giới đã sẵn sàng như thế nào… giữa sự bình lặng vốn có từ Thế chiến II và một Trung Quốc thiếu kiên nhẫn mong muốn tạo ra một trật tự một thế giới mới”.
Lam Giang
Theo The Epoch Times