Cát Duyên
Dữ liệu thực tế cho thấy nhu cầu trong nền kinh tế Trung Quốc đang yếu. Một loạt các biện pháp phong tỏa đã làm méo mó hành vi kinh tế của người dân. Thúc đẩy nhu cầu không dễ dàng như thúc đẩy nguồn cung, và việc chỉ thúc đẩy nguồn cung sẽ dẫn tới lãng phí, thậm chí giảm phát.
Bây giờ đã vào năm 2023, Trung Quốc một lần nữa trở thành tâm điểm của các dự báo kinh tế. Hầu hết các dự báo, dù từ khu vực công hay tư nhân, đều tin rằng Trung Quốc sẽ tiếp tục là động lực tăng trưởng chính trên toàn thế giới. Phải thừa nhận rằng Trung Quốc đang tạo ra con số tăng trưởng rất cao so với nhiều nền kinh tế lớn khác. Tốc độ tăng trưởng GDP thực 4-5% (so với cùng thời kỳ năm trước, sau khi điều chỉnh theo lạm phát) tương ứng với Chỉ số quản lý mua hàng tổng hợp (PMI) là 50, mức nằm giữa bùng nổ và suy thoái. Chính phủ Trung Quốc không bao giờ giải thích tại sao lại tồn tại sự tương ứng như vậy và không nhiều người trên thị trường đã từng đặt câu hỏi về sự bất thường đó trong dự báo.
Ngoài điều này ra, dường như mọi người đều tin tưởng mà không nghi ngờ gì vào khẳng định của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) rằng nền kinh tế có thể được “khởi động lại” bất cứ lúc nào dưới bất kỳ hình thức nào theo ý muốn của họ. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng ở phía cung chứ không phải phía cầu. Đối với phía cung, việc trả lương cho công nhân và khởi động máy móc là một công việc dễ dàng hơn. Tuy nhiên, nhu cầu phụ thuộc vào triển vọng thu nhập và/hoặc lợi nhuận cũng như tâm lý chung; yếu tố trước là kinh tế, trong khi yếu tố sau là tâm lý. Thật không may, cả hai yếu tố này đều đang không thuận lợi, do cả thị trường nhà đất và thị trường nợ đều đang giảm đòn bẩy cùng lúc.
Nhu cầu yếu thể hiện qua hiệu quả chính sách tiền tệ
Điều này có thể được xác minh từ hành vi thúc đẩy tiền tệ và kết quả trên thực tế. Công cụ chính sách tiền tệ quan trọng là việc tạo ra tiền, thứ có thể được phản ánh bằng M0, định nghĩa của nguồn tiền hẹp nhất trong nền kinh tế; ngoài ra, việc cắt giảm lãi suất theo chính sách chỉ đơn thuần cung cấp đường hướng để in thêm tiền nhằm đạt được mức lãi suất thấp hơn. Lý tưởng nhất, điều này sẽ thúc đẩy hoạt động cho vay, điều hoạt động đầu tư đa phần đòi hỏi. Đầu tư thường là động lực chính của tăng trưởng GDP vì tính biến động tương đối cao so với tiêu dùng. Do đó, logic phải là “tiền-cho vay-đầu tư”. Tăng trưởng hàng năm của tiền M0, khoản cho vay và đầu tư của Trung Quốc. Đường màu xanh: M0, thước đo ở bên trái. Đường đỏ đứt nét: khoản cho vay, thước đo ở bên phải. Đường đỏ liền: đầu tư, thước đo ở bên phải. (Ảnh: Law Ka-Chung)
Nhìn vào biểu đồ, ta có thể đánh giá của hiệu quả thúc đẩy đầu tư. Đường M0 được điều chỉnh bằng cách loại bỏ các biến động bất thường do ngày Tết Nguyên đán thay đổi hàng năm. Tăng trưởng M0 từ cuối năm 2018 đến nay ngày càng cao, trong khi xu hướng tăng trưởng cho vay và đầu tư vẫn chậm chạp. Thời gian cho sự chậm trễ về hiệu lực chính sách có thể lên đến hai năm nhưng không đến ba hoặc bốn năm.
Giai đoạn này khá giống với giai đoạn cuối những năm 1990, khi việc tạo ra tiền thật điên rồ trong khi tác động không đáng kể. Chính sách tiền tệ không thể giải quyết các vấn đề về phía cung, như tất cả chúng ta đã chứng kiến trong hai năm qua. Vì vậy, sự thất bại của chính sách tiền tệ này đồng nghĩa với sự suy yếu của nhu cầu, tại thời điểm nền kinh tế vẫn chưa rơi vào bẫy thanh khoản (lãi suất bằng 0).
Nhu cầu không bao giờ dễ dàng tăng lên vì yếu tố tâm lý. Đồng thời đã có một loạt các biện pháp phong tỏa làm sai lệch hành vi kinh tế của toàn bộ người dân. Biến dạng càng lâu hoặc càng nghiêm trọng thì càng mất nhiều thời gian để bình thường hóa. Và với một chu kỳ đi xuống phía trước, tình trạng thất nghiệp và đóng cửa doanh nghiệp sẽ làm tình hình trở nên tồi tệ hơn.
Thúc đẩy nhu cầu không dễ dàng như thúc đẩy nguồn cung. Các chính sách chỉ thúc đẩy cung sẽ dẫn đến nguồn cung dư thừa, đồng nghĩa với lãng phí và giảm lạm phát (hoặc thậm chí là giảm phát).
Bài viết chỉ phản ánh quan điểm của tác giả, không nhất thiết phản ánh quan điểm của NTDVN.
Theo The Epoch Times
Cát Duyên biên dịch